Tiếng kẻng vọng từ thuở ấy
Hoàng Xuân Phú
Cái kẻng
ấy giờ đây không còn nữa. Có lẽ nó ngân lên lần cuối cách nay hơn 35 năm, rồi vĩnh
biệt Trường Phổ thông cấp III Thị xã Thái Bình, giống như học trò chúng tôi, sớm
muộn rồi cũng chia tay với mái trường xưa. Chỉ khác nhau ở chỗ, chúng tôi vẫn còn
đây, mà cái kẻng đã biến khỏi thế gian. Vì sao? Phải chăng bán đi để mua chút
lương thực trong những năm đói kém, vì nó là một tảng kim loại có thể đưa vào
lò luyện thép? Hay đẩy đi hằng sớm quên ký ức nặng nề của cuộc chiến tranh, bởi
nó là vỏ bom? Vâng, nó là vỏ của một quả bom mà máy bay Mỹ đã ném xuống Thái
Bình. Bom nổ toác ra, tạo thành một tấm kim loại khá lớn, với hình thù cong
queo méo mó khá độc đáo. Trên vỏ bom vẫn còn mấy dòng thông tin, song khi đó
chúng tôi chưa biết tiếng Anh, nên chẳng hiểu nội dung viết gì.
Hàng
ngày tiếng kẻng ấy vang lên nhiều lượt, trước và sau mỗi tiết học. Nghe mãi
thành quen, nên nó chẳng hề gây ấn tượng cho đám học trò. Song khi đoàn quay
phim Liên Xô đến thăm trường, thì cái kẻng ấy trở thành đối tượng đặc biệt
không thể bỏ qua. Họ dùng phấn trắng tô lên để mấy dòng chữ đúc chìm hiện rõ, rồi
quay phim cảnh bác gác trường gõ kẻng. Nhưng khi bác Phôn cầm búa hiện ra thì họ
lại lắc đầu. Có lẽ vì trông bác khắc khổ quá, quần áo cũng chẳng lành lặn. Cuối
cùng, đạo diễn đề nghị một người ăn mặc tươm tất nhất gõ thay, đó chính là thầy
Hiệu trưởng Vũ Huy Hồi.
Cái kẻng
ấy là một trong những kỷ vật quý hiếm nhất mà trường chúng tôi đã từng có. Hình
ảnh của nó đã theo tôi suốt bao năm sống xa Tổ quốc, luôn âm vang gợi lại những
kỷ niệm thân thương về thầy cô, bè bạn. Mỗi lần nhớ đến cái kẻng, thì tâm tư lại
dồn vào cây xà cừ mảnh dẻ. Nó không lớn nổi, mà bị còng rạp xuống bởi trọng lượng
quá lớn của tảng vỏ bom vừa to vừa dày. Song nó vẫn cố gồng lên, để làm nơi
treo kẻng.
Đối với
tôi, cây xà cừ treo kẻng đã trở thành biểu tượng của thầy cô thuở ấy. Họ đều mảnh
dẻ như cây xà cừ chậm lớn, cũng gầy guộc như muôn dân trong những năm nghèo đói,
song vẫn gồng mình gánh vác trách nhiệm lớn lao. Cuộc sống khó khăn đè nặng từng
số phận, nhưng các thầy cô vẫn cố gắng vượt khó, vươn lên để dạy dỗ học trò. Và
lũ chúng tôi, dù đói meo vẫn vô tư nghịch ngợm, vô tình đè nặng thêm cái gánh
đã quá nặng đối với thầy cô.
* * *
Sau bốn
năm sơ tán về nông thôn để tránh bom Mỹ, tôi hồi cư về Thị xã Thái Bình vào cuối
năm 1969. Rồi bắt đầu học lớp 8 tại Trường Phổ thông cấp III Thị xã Thái Bình từ
tháng 9 năm 1970. Lúc đó trường cũng mới hồi cư, cơ sở vật chất còn rất nghèo
nàn, thiếu thốn. Ấy vậy mà nhà trường đã trang bị bốn dụng cụ cho môn thể dục.
Xịn nhất là cái xà kép và cái xà lệch, có lẽ được đặt mua từ xa. Cái xà đơn thuộc
loại cây nhà lá vườn, làm bằng hai cột gỗ lim được cắm sâu xuống đất, với một ống
thép rắn chắc có thể cài ngang vào hai tầm cao thấp khác nhau, đặng chiếu cố cả
đám học sinh còi cọc. Cầu thăng bằng cũng do nhà trường tự làm, từ một khúc gỗ
dài đặt ngang trên hai cọc gỗ cắm xuống đất. Thầy Thanh và cô Lương là hai giáo
viên thể dục được đào tạo chính quy, nên không quên môn nhảy cừu, nhảy ngựa. Dụng
cụ cho môn nhảy ngựa thì đắt, tự làm không dễ, nên đành chịu. Còn cừu thì cô Lương
hướng dẫn học trò đóng mấy cọc tre xuống đất làm cốt, rồi nhào đất đắp quanh
thành ụ, và coi đó là cừu để tập nhảy.
Khi
còn nhỏ tôi rất yếu, mắc đủ thứ bệnh tật, nên bác sĩ đề nghị nhà trường miễn
cho môn thể dục. Song tôi vẫn tham gia học thể dục cùng bạn bè. Thuộc loại nhỏ dưới
tầm, nên việc nhảy qua cái ụ đất thay cừu trở thành thách đố lớn nhất của cả mười
một năm cắp sách tới trường. Nhưng cố tập mãi, rồi cũng đến lúc tôi nhảy qua được.
Vào khoảnh khắc thành công ấy, cô Lương mừng quá, chạy tới ôm chặt cậu học trò
bé bỏng. Nhờ kiên trì luyện tập cả mười năm sau đó, nên bệnh tật dần dần biến hết.
Vì vậy đối với tôi, thể dục là một trong những môn học quan trọng nhất, đáng học
nhất trên đời.
Tôi đề
cập trước hết đến môn thể dục, vì nó rất phù hợp để khắc họa sự thăng trầm của chất
lượng giáo dục. Cái thuở chiến tranh đầy gian khó, thể dục bị coi là môn phụ mà
còn được dạy nghiêm túc đến như vậy, thì có thể suy ra nhà trường khi đó coi trọng
các môn học khác đến mức nào. Còn bây giờ, giữa thời buổi no nê, chốn chốn bể
bơi, nơi nơi sân tenis, mà quanh năm học sinh chỉ được dạy thể dục một cách
hình thức, học chay chiếu lệ, chẳng động đến xà đơn xà kép, chứ đừng nói đến nhảy
cừu hay nhảy ngựa. Qua đó có thể nhận ra chiều biến thiên đồ thị của chất lượng
giáo dục nước nhà.
* * *
Để
đánh giá mức độ nghiêm túc của nhà trường thuở ấy, không thể bỏ qua thái độ coi
trọng thí nghiệm, thực hành của các thầy cô.
Ngay từ
đầu lớp 8, lũ học trò chúng tôi đã trầm trồ thán phục, khi cô Yến (dạy vật lý) đặt
một tờ giấy lên mặt bàn và dựng cây bút chì đứng trên mặt giấy, rồi giật nhanh
tờ giấy khỏi đế sao cho cây bút chì không đổ, để minh họa về quán tính.
Khi học
lớp 9, cô Mùi (dạy sinh vật) yêu cầu mỗi tổ chuẩn bị một con ếch, rồi từng đứa quan
sát màng chân của nó qua kính hiển vi, để thấy được sự chuyển động của mô.
Để thực
hành kiến thức từ bài giảng kỹ thuật nông nghiệp của thầy Quýnh, thầy Thịnh,
nhiều nhóm phải nuôi thỏ, nuôi lợn… Kết quả có lẽ không thành công về mặt kinh
tế, nhưng cũng để lại cho học trò những bài học bổ ích về chăn nuôi.
Nhờ những
bài giảng kỹ thuật công nghiệp của thầy Là, trên lớp cũng như trong xưởng trường,
mà chúng tôi biết được động cơ đốt trong có cấu tạo thế nào và được sản xuất ra
sao.
Có lần
thầy Trịch yêu cầu tôi chuẩn bị mô hình minh họa cho một bài tập hình học không
gian lớp 9. Tôi đã tốn khá nhiều thời gian, dùng mấy sợi dây nhôm làm các đoạn
thẳng, và xoắn chúng với nhau khi các đoạn thẳng cắt nhau. Tất nhiên các mối kết
nối khá thô. Và vì dây nhôm mềm, nên cứ chạm nhẹ là mô hình méo mó. Đến lúc giảng
bài, thầy Trịch chẳng đoái hoài đến kết quả chuẩn bị của trò, mà trình diễn một
mô hình khác. Nó được làm từ những que tre được vót nhỏ rất cẩn thận, dùng chỉ
buộc các mối kết nối nên rất gọn gàng kín đáo, đồng thời các sợi chỉ được căng
ra để minh họa mặt cắt nên rất dễ hình dung. Nhờ thế, mô hình thầy mang đến vừa
chính xác, vừa đẹp, vừa vững chắc.
Năm
1972 Mỹ lại ném bom miền Bắc. Một quả bom rơi cách nơi tôi ngồi khoảng 70 mét.
Vì vậy trường phải sơ tán về xã Phú Xuân mấy tháng. Có lúc tình hình căng thẳng
quá, nhà trường quyết định chỉ duy trì giảng dạy bốn môn toán, văn, lý và hóa,
để giảm thiểu thời gian học sinh tập trung trên lớp. Trong điều kiện khó khăn đột
ngột ấy, thầy cô vẫn duy trì thí nghiệm. Tuy phải sơ tán gấp gáp, nhưng nhà trường
vẫn cố mang theo dụng cụ làm thí nghiệm, chất đầy trong gian nhà lá. Có lần thầy
Đường (dạy hóa học) bảo tôi chui qua đường hầm (đào thông vào lớp học), đến cái
kho dã chiến ấy lấy lọ đựng natri. Rồi thầy thả một chút natri vào cốc nước. Mẩu
natri bơi tung tăng trên mặt nước, tỏa nhiệt phát ra tiếng nổ lách tách, khiến
cả lớp háo hức dõi theo. Trong lớp tôi ngồi cạnh bạn Trường (biệt danh Trường
Khỉ), rất giỏi môn hóa học. Được thầy Đường cực kỳ tin tưởng, bài kiểm tra hóa học
nào của Trường cũng nhận được điểm 10. Đến mức Trường nghi ngờ, thì thào: "Có
lẽ thầy cũng chẳng đọc xem tao làm bài thế nào." Vậy mà khi thầy Đường
làm thí nghiệm, nhúng một sợi nhôm vào dung dịch muối thủy ngân rồi rút ra, chìa
cho cả lớp xem và hỏi có thấy gì không, thì chàng học trò cưng của thầy lại trả
lời rằng chẳng thấy gì cả, trong khi tôi nhìn thấy rất rõ hiệu ứng nhôm mọc
lông tơ. Cao hứng, tôi làm luôn một câu: "Thưa thầy, bạn Trường lác ạ".
Ai ngờ, thầy Đường quát lớn: "Thằng này mất dạy. Mày con cái nhà ai?"
Lúc đầu tôi chẳng hiểu tại sao thầy lại nổi nóng đến thế, bởi thời ấy bọn trẻ vẫn
quen dùng từ "lác" để trêu chọc, chê bai lẫn nhau, theo kiểu dễ
thế mà cũng không thấy. Lát sau mới chợt nhớ ra, là mắt thầy hơi lác.
Thầy
Đường dạy hóa rất điêu luyện, những kiến thức khô khan qua trình bày của thầy bỗng
trở nên hấp dẫn. Song học trò lại xì xào là thầy Đường bất cần, chẳng biết sợ
ai, vì thầy giỏi và có thâm niên giảng dạy thuộc loại cao nhất trường. Hơn nữa
vợ thầy khi đó là Phó Ty Giáo dục Thái Bình, và học trò đồn rằng thầy từng tuyên
bố: "Tôi còn trên cả Phó Ty." Kể nhiều như vậy về thầy Đường để
nói rằng, nếu bị xem là bất cần, mà còn coi trọng thí nghiệm, thực hành đến thế,
thì các thầy cô của chúng tôi giảng dạy nghiêm túc đến mức nào.
* * *
Thời ấy
nhà trường rất chú trọng lao động, nên học trò phải thường xuyên tham gia lao động.
Một trong những việc đầu tiên, mà chúng tôi phải làm khi học lớp 8C do thầy Bùi
Xuân Trịch làm chủ nhiệm, là phá khu nhà xí và lấy gạch vỡ đầm nền nhà. Thay vì
đứng đó chỉ tay điều khiển, thầy Trịch lẳng lặng làm mọi việc, chẳng chút nề
hà. Học trò dù không muốn cũng phải làm theo, lười cũng khó. Năm tiếp theo, lớp
9C của chúng tôi được chia thành hai nhóm, một nhóm làm mành tre, một nhóm nuôi
thỏ. Và đương nhiên, thầy Trịch luôn xắn tay làm cùng với cả hai nhóm.
Lên lớp
10 nhóm học sinh giỏi toán (Xuân Hoan, Tiến Toàn, Thanh Tuân, Như Hồng, Ngọc Hồng
và tôi) được dồn cả về lớp 10A, do thầy Nguyễn Đình Ruật dạy toán làm chủ nhiệm
và thầy Đào Văn Vĩnh dạy văn. Đó là lúc Mỹ lại ném bom và trường phải sơ tán về
xã Phú Xuân mấy tháng. Công việc đầu tiên phải tiến hành là dựng lớp học, cùng
với hệ thống hầm kèo tre bao quanh. Lúc tập kết tre luồng, nhóm học sinh giỏi
toán được giao nhiệm vụ canh chừng vật liệu. Đêm đông tối mò, trời lại mưa rả
rích, mấy đứa chụm đầu thắp ngọn đèn dầu để nhận biết hiện trường. Bỗng ai đó từ
đâu tiến đến, giật cái đèn dầu rồi ném xuống ao. Như vậy là có chuyện rồi. Có lẽ
đấy là một âm mưu, hủy nguồn ánh sáng để giữa đêm đen dễ bề ăn trộm. Nhận định
như vậy, nên Hoan và tôi lò mò đến nhà thầy Ruật đang sơ tán, để báo cáo tình
hình và xin thỉnh thị. Thầy cũng chẳng biết phải chỉ thị gì trong hoàn cảnh ấy,
đành khoác lên người tấm chăn chiên rồi cùng hai đứa ra hiện trường. Cả đêm hôm
ấy, mấy thầy trò ngồi bệt ở chân đống rạ, căng ni lông che mưa. Tấm ni lông thì
bé, mà mưa lại to, nên ai nấy đều bị ướt. Rét run cả đêm, đứa nào đứa nấy đều cố
kéo cái chăn của thầy, khiến nó bê bết đất. Thời đó, cái chăn cũng là một trong
những tài sản đáng kể nhất của mỗi nhà. Mãi rồi trời cũng sáng. Mà cả đêm chẳng
thấy tên trộm nào xuất hiện. Chợt hiểu ra, chắc ai đó bực mình vì chúng tôi thắp
đèn ngoài trời, có thể khiến máy bay Mỹ phát hiện từ xa mà kéo đến ném bom, nên
mới giật đèn ném xuống ao.
Vậy mà
chúng tôi đã bắt thầy Ruật cùng thức, cùng chịu mưa suốt cả đêm đông. Hơn nữa,
sáng ra mới ý thức được rằng, lúc Hoan và tôi đến báo tin thì thầy đang ốm, nên
mới phải trùm chăn tới hiện trường. Hơn 40 năm đã trôi qua mà tôi vẫn thấy áy
náy về chuyện ấy. Và càng thêm kính nể các thầy cô, những nhà giáo gương mẫu
luôn lăn lộn cùng với học trò.
* * *
Lẽ ra,
tôi học lớp chuyên toán của tỉnh Thái Bình đặt tại Trường Phổ thông cấp III Thị
xã Thái Bình. Ty Giáo dục đã điều thầy Võ Khắc Đôn từ Phụ Dực về phụ trách lớp ấy.
Nhưng rồi đột nhiên cấp trên lại quyết định không mở lớp chuyên toán thứ tư,
sau ba năm đầu liên tục tuyển sinh. Vậy là tôi học ở lớp thường. Nhưng vẫn may
mắn, được thầy Đôn bồi dưỡng và truyền thụ niềm đam mê toán học khoảng hai năm,
cho đến ngày thầy vào quân đội. Cùng với thầy Đôn, nhóm học sinh giỏi toán còn
được thầy Hùng, thầy Mạc, thầy Ruật, thầy Trịch và thầy Tuyết nhiệt tình bồi dưỡng.
Năm
1973 chúng tôi phải thi tốt nghiệp phổ thông với bốn môn toán, văn, lý, địa. Gần
kỳ thi, ngoài những tiết học thông thường vào buổi sáng, thầy cô tập trung học
sinh để ôn tập cả buổi chiều và buổi tối. Những ngày ấy, chắc thầy Ruật, thầy
Vĩnh, thầy Từ, cô Thông và các thầy cô khác mệt lắm, ăn uống quá đạm bạc mà phải
lên lớp quá nhiều.
Sau kỳ
thi tốt nghiệp phổ thông lại đến kỳ thi đại học. Các thầy cô lại lao vào bồi dưỡng
cho học trò thi một trong ba khối A, B, C. Đó cũng là lần đầu tiên đám học sinh
khối A được thầy Từ và thầy Đường dạy cho những bài tập vật lý, hóa học thuộc
loại hóc búa, khó hơn hẳn những bài trong chương trình thông thường.
Liệt
kê những buổi học thêm như trên, chắc chẳng gây nổi ấn tượng nào cho thầy trò
ngày nay, bởi bây giờ họ dạy và học thêm nhiều gấp bội. Song có lẽ nhiều người
sẽ ngạc nhiên, khi biết rằng thời ấy chúng tôi được thầy cô dạy thêm khá nhiều,
mà hoàn toàn miễn phí, học trò chẳng hề phải đóng chút tiền nào. Khi đó chúng
tôi quá vô tư, cứ điềm nhiên tiếp nhận lòng tốt của thầy cô, như thể hiển nhiên
phải như thế. Mà không ý thức được rằng, chỉ mươi năm sau, diễm phúc mà chúng
tôi từng được hưởng từ thầy cô thời đói kém sẽ trở thành chuyện cổ tích khó tin
đối với thế hệ đi sau.
* * *
Sống
xa Tổ quốc một thời gian dài, nên thỉnh thoảng tôi mới có dịp về Thái Bình để
thăm thầy cô. Mỗi lần đến nhà thầy Trịch, thầy Ruật trong khu tập thể của trường,
tôi lại đi qua cổng nhà thầy Hồi. Lưỡng lự một chút rồi đi tiếp. Chắc thầy Hồi
chẳng nhớ nổi mình là ai, vì thầy là hiệu trưởng bao năm, từng tiếp xúc với hàng
nghìn gương mặt. Mình chỉ là một học trò mà thầy từng gặp mấy chục năm trước,
và chưa bao giờ trực tiếp giảng dạy. Rồi một lần tôi chậc lưỡi, thử vào thăm thầy
xem sao. Ai ngờ, đang định tự giới thiệu, thì thầy đã hỏi thay cho lời chào: "Hoàng
Xuân Phú hả?" Hóa ra, thầy không chỉ nhớ rõ họ tên của tôi, mà cả họ
tên của bố mẹ tôi. Và không chỉ riêng tôi, rất nhiều bạn bè cùng lứa cũng được
thầy Hồi lưu trữ lâu dài trong ký ức như vậy.
Rồi
một hôm tôi tìm đến nhà thầy Trần Văn Đường và thưa rằng: "Sau hơn hai
mươi năm kể từ ngày thầy mắng em mất dạy, hôm nay em trở về thăm thầy…".
Thầy chỉ cười hiền hậu, chẳng hỏi "Mày con cái nhà ai" như ngày
trước. Bởi cũng như thầy Hồi, thầy Đường vẫn nhớ cả tên tôi và tên của bố mẹ
tôi. Ngày thầy qua đời, vừa nghe bạn Như Hồng báo tin, tôi vội bắt xe từ Hà Nội
về Thái Bình. Đến nơi gia đình vẫn chưa phát tang, bạn học cũ cũng chưa kịp tới.
Sau khi vợ con thầy mở đầu lễ viếng, người điều khiển tang lễ giới thiệu "học
trò cũ của thầy Đường vào viếng". Ấy là vì tôi đề nghị chỉ nói như vậy.
Sau đó cô Chi (vợ thầy Đường) trách: "Sao lúc viếng em không xưng tên?"
Thưa cô, dù em không xưng tên thì thầy cũng nhận ra rồi. Vả lại, em còn muốn
thay mặt cả bè bạn phương xa không về được.
Thầy
cô thuở ấy giờ đây đã rẽ về nhiều ngả, chẳng còn nhiều người tiếp tục sinh sống
ở Thái Bình. Thỉnh thoảng tôi về thăm thầy Vĩnh, thầy Trịch và những gia đình
đã từng cưu mang thời sơ tán. Thuở còn nhỏ thầy Trịch gọi chúng tôi là em, xưng
thầy. Bây giờ trò xưa đã đến tuổi về hưu thì thầy lại gọi là mày, xưng tao.
Nghe gần gũi, ấm áp lạ lùng.
Hè
năm lớp 8 cô Yến đưa Tuân và tôi lên tham quan Hà Nội, ở nhà bố mẹ cô khoảng một
tuần. Khi chúng tôi lên lớp 10 thì cô chuyển nơi công tác, và cô trò mất liên lạc
từ đấy. Gần 20 năm sau mới tìm được nhà cô ở Phường Quang Trung, Thị xã Thái
Bình. Rồi cô Yến chuyển nhà lên Hà Nội, mà chuyển hai lần, vì thế lại thêm hai
lần tìm nhà cô. Bây giờ cô Yến vào Sài Gòn chăm sóc con cháu, nên nhân một lần đi
công tác tôi mới có dịp cùng Tuân ăn cơm với cô. Cũng nhân dịp vào Sài Gòn công
tác, tôi mới gặp được thầy Từ. Lại nhớ cái đêm tối mò ở nơi sơ tán, lo tôi vấp
ngã nên thầy Từ đưa cho một quyển truyện, bảo "đốt mà soi đường".
Tiếc quá, tôi chẳng đốt mà giữ lại, và tất nhiên là phải lần mò từng bước giữa đêm
đen, bốn bề ran tiếng chó sủa.
Có
lẽ nhóm thầy cô đang sinh sống ở Hà Nội là đông nhất: Thầy Luân, cô Phụng, thầy
Quýnh, cô Uyển Di, thầy Vân, cô Phương… Cô Thơm dạy chúng tôi tiếng Nga hai năm
lớp 8 và lớp 9. Song khi đó tôi chẳng dám gần. Một mặt vì thấy cô có vẻ rất
nghiêm, mặt khác cô là tố nữ Hà Thành, nên đối với đám học trò thôn quê thì cô
thuộc đẳng cấp ngoại hạng. Thầy Quyết còn xa vời hơn, bởi thầy chưa bao giờ dạy
lớp tôi. Ngoài dáng đẹp trai, thông minh của trí thức Hà Thành, thầy Quyết còn
nổi tiếng về việc rèn luyện thân thể. Sáng nào thầy cũng chạy, rồi trần trục tắm
nước lạnh bên cạnh cái bể ngoài trời, kể cả những ngày đông gió rét. Vì vậy, đám
thanh niên co ro nhìn thầy như người đến từ một hành tinh xa lạ. Ai ngờ, bây
giờ thầy Quyết cô Thơm lại là cặp thầy cô mà nhóm chúng tôi gần gũi thân thiết
nhất. Thỉnh thoảng cô Thơm lại nhắc nhở: "Lâu nay nhóm này không gặp
nhau, bây giờ phải gặp gỡ thường xuyên hơn, tháng sau bắt đầu từ nhà tôi."
Học trò chưa kịp mời thầy cô, thì thầy cô đã mời học trò.
Thầy
Đôn vào bộ đội năm 1972. Hai năm sau thì tôi đi du học ở Cộng hòa Dân chủ Đức.
Vậy là thầy trò bị mất liên lạc suốt bốn thập kỷ. Một lần đi công tác về, gặp Giáo
sư Nguyễn Xuân Tấn, cùng công tác ở Viện Toán học, thì anh ấy nói: "Thầy
Đôn đang tìm mày." Sao anh biết thầy Đôn? "Vì thầy mày cũng là
thầy tao." Hóa ra, thầy Đôn đã từng dạy anh Tấn ở Trường Phổ thông cấp
III Phụ Dực. Và nhóm anh Tấn vẫn gắn bó với thầy Đôn suốt nửa thế kỷ qua. Lúc
cao hứng, anh Tấn còn tố cáo: "Dạo ấy thầy Đôn ăn đút lót của mẹ tao mấy
củ khoai lang." Thầy phân bua: "Phải gạ, chúng nó mới đến để
mình bồi dưỡng toán; dạy không công, mẹ nó biếu mấy củ khoai lang, chẳng nhẽ lại
không nhận."
Một
thế hệ thầy cô cần mẫn trong sáng, gặp lứa học trò vốn nghịch ngợm vô tư, nhưng
lớn lên rồi cũng hiểu ra, nên trọng tình trọng nghĩa. Trôi với thời gian, mỗi
người lênh đênh một phận. Rong ruổi đường đời, kẻ thì thành đạt kẻ thì chơi
vơi. Song vẫn trọn lòng kính trọng thầy cô như thuở cắp sách tới trường.
* * *
Xa
trường đã hơn bốn mươi năm, mà vẫn nghe văng vẳng tiếng kẻng một thời. Âm vang
lan tỏa không trung, rồi đọng lại thành một thứ keo siêu việt, gắn bó tình thầy
trò, và kết dính bền chặt lứa học trò chúng tôi với bao kỷ niệm sâu sắc của Trường
Phổ thông cấp III Thị xã Thái Bình, nay mang tên THPT Lê Quý Đôn. Dường như tiếng
kẻng vẫn rung cả thân cây xà cừ mảnh dẻ, nhắc nhở học trò thuở ấy chớ quên công
ơn dạy dỗ của thầy cô, những nhà giáo của thời sống và làm việc theo lý tưởng
cao đẹp, luôn hết lòng tận tụy vì học sinh thân yêu.
Hà
Nội, ngày 2 tháng 11 năm 2015