Nhân
vụ Tiên Lãng bàn về công vụ
Hoàng
Xuân Phú
Tiếng nổ ở Tiên Lãng ngày 5/1/2012 đã
làm chấn động bốn phương, quá đủ để thức tỉnh những ai còn có thể thức tỉnh. Nó
buộc những người có lương tri phải suy nghĩ, để trả lời câu hỏi: Vì sao lại có
kết cục bi thảm như vậy? Sẽ còn bi thảm hơn nếu những người cầm quyền không rút
ra bài học hợp lý để xử lý đúng vụ này.
Một
số người đòi nghiêm khắc xử lý ông Đoàn Văn Vươn và những
người liên quan về tội chống người thi hành công vụ. Nhiều người tin rằng
gia đình ông Vươn là nạn nhân của cường hào ác bá thời nay, nhưng cũng nghĩ là
họ không thể tránh khỏi bị trừng phạt vì đã chống người thi hành công vụ.
Ngày 10/1/2012 Viện Kiểm sát Nhân dân Thành phố Hải Phòng đã phê chuẩn quyết định
của Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an Thành phố Hải Phòng, khởi tố bị can đối với ông Đoàn Văn
Vươn và 3 người thân về tội giết người, đồng thời khởi tố vợ và em dâu
ông Vươn về tội chống người thi hành công vụ.
Hai
tiếng "công vụ" cứ lặp lại, vang lên như tiếng chuông dồn dập
trong buổi chiều tà, khi cái ác hoành hành, nhân danh công vụ để ức hiếp
dân lành, khiến tâm hồn bất an, lương tri bứt rứt. Vì vậy tôi phải gạt bao việc
cần kíp sang một bên để viết bài này.
Công vụ hay mạo danh công vụ?
Công vụ là gì? Bách khoa toàn thư mở Wikipedia viết rằng:
"Công
vụ là một hoạt động do công chức nhân danh nhà nước thực hiện theo quy định của
pháp luật và được pháp luật bảo vệ nhằm phục vụ lợi ích của nhân dân và xã hội."
Nội
dung này cũng phù hợp với cách giải nghĩa trong Từ điển học và Bách khoa thư Việt Nam.
Rõ
ràng, công vụ phải là việc công, do công chức nhân danh nhà nước thực
hiện. Nếu lợi dụng chức quyền để triển khai những việc nhằm trục lợi cho bản
thân, không nhằm phục vụ lợi ích của nhân dân và xã hội, thì không
thể ngụy biện là công vụ. Những kẻ nhân danh chính quyền để chiếm đất của
dân rồi giao cho người khác để kiếm chác những khoản tiền tham nhũng, thì không
còn đủ tư cách xưng danh công chức để ra lệnh hay thi hành công vụ.
Công
vụ
phải có lý do rõ ràng và minh bạch. Lấy đất của dân, lúc thì bảo là do hết hạn thuê, lúc thì viện cớ xây dựng sân bay, lúc lại ngụy biện là để đảm bảo công bằng. Mỗi lúc tung ra một
lý do khác nhau, để che dấu cái mục đích xấu xa, thì chỉ thể hiện thói dối trá
đã ăn sâu vào xương tủy, đã di căn từ đầu đến chân, chứ không thể biện hộ được lý
do công vụ.
Công
vụ
thì phải chính danh, phải có những người đủ thẩm quyền ra lệnh, thi hành
và chịu trách nhiệm. Phá nhà của dân, rồi trơ trẽn vu khống cho nhân dân bức xúc nên phá, thì không thể
gọi là chính danh. Việc cho công chức giả danh dân thường hoặc huy động thành
phần bất hảo để giải tán biểu tình, ngăn cản khiếu kiện hay đàn áp ai đó là
không chính danh. Việc dùng một thông báo không ai dám ký làm bình
phong để đàn áp người biểu tình yêu nước là không chính danh. Công an mặc thường
phục để rình bắt những người vi phạm quy tắc giao thông cũng không chính danh. Đang
lái xe trên đường, thấy người mặc thường phục rượt đuổi, thì lấy gì để đảm bảo rằng
đấy không phải là cướp? Ngay cả trong trang phục công an còn khó phân biệt được
kẻ xấu, người ngay, huống chi là mặc thường phục. Vậy mà lại bắn vào đùi người đi đường chỉ vì không
chịu dừng xe (theo đòi hỏi của công an giả dân), thật là ngang ngược hết
mức.
Thi
hành công vụ thì phải thực hiện đúng mục tiêu.
Quyết định thu hồi đất một nơi, lực lượng cưỡng chế
lại tiến vào hành sự trên một mảnh đất khác, hoàn toàn không nằm trong khu vực
bị thu hồi, và đập phá nhà dân trên diện tích ấy. Đó là xâm phạm và
phá hoại tài sản hợp pháp của công dân. Không chỉ phá hoại, một khi người tham gia cưỡng chế đã vơ vét đồ đạc, Xã đội
phó cuỗm cả cái ổn áp, thì phải gọi là cướp bóc. Chẳng nhẽ công vụ
là vậy sao? Nếu người nhà ông Vươn đuổi theo vị Xã đội phó và giật lại cái ổn
áp, thì sẽ bị buộc cho tội chống người thi hành công vụ chăng?
Điều
tiên quyết là công vụ chỉ được thực hiện theo quy định của pháp luật.
Về vụ Tiên Lãng, đã có rất nhiều bài viết chỉ ra việc chính quyền địa phương quyết
định thu hồi đất và tiến hành cưỡng chế đối với gia đình ông Đoàn Văn Vươn
là
trái pháp luật. Đặc biệt, Nguyên Chủ tịch nước Lê Đức Anh đã đánh giá:
"Tôi
đang theo dõi sát vụ việc này nên có thể khẳng định chính quyền sai từ xã đến
huyện. Điểm sai đầu tiên là để sự việc kéo dài quá nhiều năm mà không xử lý đến
nơi đến chốn và thấu tình đạt lý. Người làm được, làm tốt đáng lẽ phải động
viên, tạo điều kiện nhưng lại cố thu hồi của người ta, đó là cái sai thứ hai.
Việc thu hồi còn trái pháp luật là cái sai thứ ba. Cái sai thứ tư là chính quyền
cố tình vi phạm luật pháp, dồn người dân vào chân tường, làm họ uất ức đến mức
phải chống lại."
Thiết
tưởng không cần phải bổ sung thêm gì nữa. Một hoạt động, cho dù của ai, cho dù ở
cấp nào, mà vi phạm pháp luật, thì tự nó đã tước bỏ chính danh của công vụ.
Vụ
cưỡng chế ở Tiên Lãng vi phạm tất cả những tiêu chí kể trên, nên không thể xem
là một công vụ theo nghĩa tử tế. Nó đẩy chính quyền đứng trước hai lựa
chọn. Nếu coi nó là một công vụ thì sẽ phải trả lời cho nhân dân câu hỏi:
Tại sao chính quyền này lại có loại công vụ tệ hại, ức hiếp người dân
như vậy? Nếu không coi nó là một công vụ thì cũng không thể buộc cho ông
Đoàn Văn Vươn và người thân vào tội chống người thi hành công vụ, mà phải
nghiêm trị những kẻ mạo danh công vụ để trục lợi, hại dân và bôi nhọ
công vụ.
Thi hành công vụ hay tòng phạm việc xấu?
Bình
thường, đã là công chức thì phải thực hiện nhiệm vụ được lãnh đạo phân công. Là
công an, bộ đội thì lại càng phải tuân theo mệnh lệnh của chỉ huy. Kỷ luật ấy
là điều kiện cần thiết để một chính quyền có thể vận hành trôi chảy.
Nếu
có thể yên tâm rằng mọi nhiệm vụ đều hợp lý, mọi mệnh lệnh đều đúng đắn, thì
người thi hành chỉ còn phải lo hoàn thành nhiệm vụ được giao. Nhưng lấy đâu ra cái
yên tâm ấy giữa thời buổi tham nhũng tràn lan, trở thành quốc nạn, việc lớn việc
nhỏ bị chi phối bởi các nhóm lợi ích? Khi môi trường bị ô nhiễm trầm trọng thì
không thể ngây ngô tin rằng mọi giọt nước từ trên trời rơi xuống đều trong sạch;
ngược lại, phải ý thức rằng nước trời có thể chứa đầy độc tố. Khi trên đầu có cả
"một bầy sâu" (theo cách nói của Chủ tịch nước Trương Tấn Sang) thì công
chức có thể phải tiếp nhận cả những nhiệm vụ xấu xa, những mệnh lệnh sai trái.
Với
những người a dua, mong được theo đóm ăn tàn, hay những kẻ chờ dịp để thỏa máu
côn đồ, vốn dĩ bị kìm nén bởi địa vị công tác, như kẻ đã đạp vào mặt người biểu tình yêu nước,
thì chẳng có gì khiến họ phải lăn tăn. Nhưng với những công chức mẫn cán, những
sĩ quan và chiến sĩ một mực trung thành, thì hoàn cảnh trớ trêu ấy đẩy họ rơi
vào tình thế khó xử. Không tuân lệnh thì vi phạm kỷ luật và băn khoăn về trách
nhiệm. Mà tuân lệnh thì lại bứt rứt lương tâm, nhất là khi phải tham gia làm hại
người lành. Cuối cùng thì quyền lợi bản thân thường là trọng lượng quyết định
làm lệch cán cân do dự. Liều thuốc an thần hay được dùng để tự an ủi là mình chỉ
làm theo phận sự, buộc phải tuân lệnh, và nếu sai thì người ra lệnh phải chịu
trách nhiệm chứ không phải người thi hành…
Tiếc
rằng liều thuốc ấy không đủ để gột bỏ trách nhiệm của những người tham gia vào
những việc sai trái. Khi người ta sai anh làm một việc xấu xa, ví dụ như việc dùng vòi cứu hỏa phun nước thải vào người dân để giải tỏa chợ,
mà anh vẫn làm, thì anh sẽ bị nhân dân nguyền rủa và gia đình anh sẽ không biết
trốn đi đâu để thoát khỏi nỗi nhục nhã.
Trong
hoàn cảnh ô nhiễm, cần tỉnh táo suy xét, xem cái việc mình phải thực hiện có thể
coi là công vụ chân chính hay không? Việc đó xuất phát từ lý do gì? Phục vụ ai
và có hại cho ai? Điều đó có chính đáng hay không? Người thi hành công vụ trước
hết phải là Người, tức là phải biết tư duy, biết phân biệt phải trái...
Không thể hành động một cách mù quáng, với tư duy nô lệ, theo kiểu lính đánh
thuê, rằng ai trả tiền cho tôi thì tôi tuân lệnh người đó. Nếu biết rõ là việc
xấu mà vẫn làm thì là tòng phạm, không thể ngụy biện là thi hành công
vụ.
Điều
quan trọng là phải xét xem nhiệm vụ được giao có hợp pháp hay không. Khi
phát hiện ra nhiệm vụ phải thực hiện hay mệnh lệnh phải tuân theo vi phạm Hiến
pháp, pháp luật, thì mọi công dân có quyền không chấp hành và có trách nhiệm đấu
tranh chống lại vi phạm ấy, theo đúng quy định trong Điều 12 của Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam
năm 1992:
"Các cơ quan Nhà nước, tổ chức
kinh tế, tổ chức xã hội, đơn vị vũ trang nhân dân và mọi
công dân phải nghiêm chỉnh chấp hành Hiến pháp, pháp luật, đấu tranh
phòng ngừa và chống các tội phạm, các vi phạm Hiến pháp và pháp luật."
Rõ ràng, nếu có quy định
buộc một loại công dân nào đó (kể cả công chức, sĩ quan và chiến sĩ trong lực
lượng công an hay quân đội) phải chấp hành cả những mệnh lệnh tiến hành công vụ
vi phạm Hiến pháp, pháp luật, thì quy định ấy vi phạm Điều 12 của Hiến pháp hiện
hành, và hiển nhiên nó phải bị hủy bỏ.
Tiếc rằng, có cả cán bộ, chiến sĩ quân đội tham gia cưỡng chế
gia đình ông Đoàn Văn Vươn, trong khi Hiến pháp năm 1992 xác định nhiệm vụ của
quân đội là bảo vệ Tổ quốc, chống ngoại xâm (Điều 46) và nhiệm vụ của công an mới
là bảo vệ an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội… (Điều 47). Tức là các cán
bộ, chiến sĩ ấy đã vượt khỏi khuôn khổ hoạt động của quân đội được quy định
trong Hiến pháp hiện hành. Đây là một vi phạm Hiến pháp nghiêm trọng, mang tính
nguyên tắc. Không thể biện hộ là do thiếu hiểu biết, vì đó là kiến thức pháp luật
tối thiểu và Luật số 16/1999/QH10 về sĩ quan Quân đội nhân dân
Việt Nam đã quy định là sĩ quan phải có trình độ về pháp luật
(Điều 12). Một khi tham gia vào chuyện không được Hiến pháp cho phép thì không
thể quan niệm là các sĩ quan và chiến sĩ quân đội đã thi hành công vụ, và nếu
quả thật cuộc cưỡng chế gia đình ông Vươn là sai trái thì họ đã trở thành tòng
phạm trong một vụ việc xấu. Khi đó, nếu có bị thương thì cũng nên ráng chịu,
thay vì oán trách những người bị dồn vào bước đường cùng.
Kể
cả trong trường hợp có vẻ như không vi phạm pháp luật hiện hành thì người công
chức cũng nên thận trọng xem xét khía cạnh đạo lý của nhiệm vụ được giao. Đừng ỷ
vào hai chữ "công vụ" và vị thế "thi hành mệnh lệnh"
mà cho rằng chúng đủ để bảo vệ mình vĩnh viễn. Biết bao sĩ quan và binh sĩ của chế
độ cũ đã bị giam vào trại cải tạo nhiều năm, mặc dù họ có thể biện minh rằng họ
chỉ thi hành mệnh lệnh theo đúng nghĩa vụ của người lính và hành động của họ
phù hợp với pháp luật của chế độ cũ.
Càng
trung thành với chế độ thì càng phải ý thức rằng: Trong số những mệnh lệnh, nhiệm
vụ mà mình tiếp nhận, có thể có những cái mà hệ quả của chúng là bôi nhọ và phá
chế độ. Vụ cưỡng chế gia đình ông Đoàn Văn Vươn là một trong rất nhiều trường hợp
như vậy. Trung tướng Nguyễn Quốc Thước nhận định
rằng:
"…
rõ ràng vụ việc Tiên Lãng là một tổn thất chính trị lớn cho uy tín của các cấp ủy
và chính quyền Hải Phòng và ảnh hưởng xấu đến cả nước."
Cho
nên, nếu cứ mù quáng chấp hành mọi mệnh lệnh sai trái thì sẽ có tội với
chính chế độ mà mình đang phụng sự.
Phán
xét cuối cùng không phải lời vàng ý ngọc của lãnh đạo,
cũng không phải là phán xử của tòa án, mà thuộc về nhân dân, thuộc về lịch sử.
Nếu tham gia vào chuyện bất nghĩa, thất đức, thì vỏ bọc công vụ sẽ không đủ để
che chở trước sự lên án của nhân dân và sự phán xét của lịch sử.
Tội chống người thi hành công vụ
Chế
độ nào cũng có trách nhiệm bảo vệ người thi hành công vụ. Chế độ này cũng rất
tích cực trong việc ấy, thậm chí là trên cả mức hợp lý. Khi có va chạm, xung đột,
thì tội của những người thuộc bộ máy chính quyền hay được nương nhẹ, thậm chí
được bao che, còn tội của dân thường thì bị nghiêm trị, nhiều khi nghiêm hơn cả
mức cần thiết. Kiểu cư xử không công bằng, quá nuông chiều người của chính quyền,
đồng thời coi nhẹ dân thường, khiến nhiều công chức, công an ngày càng trở nên
quá trớn, hay lợi dụng lý do công vụ để làm chuyện bất minh. Bức xúc dồn nén, dẫn
đến hành động chống người thi hành công vụ ngày càng gia tăng, đó cũng là quy
luật.
Khi
công vụ được thi hành một cách đúng đắn thì người chống lại cần bị trừng phạt.
Nhưng khi công vụ được thực hiện không đúng với quy định của pháp luật thì
không thể đòi hỏi người dân phải im lặng chấp thuận, và không thể đơn giản kết
tội chống đối nếu người dân có phản ứng tự vệ.
Bộ luật
hình sự của nước Đức được ban hành vào năm 1871, với tội chống
người thi hành công vụ được quy định ở Điều 113, trong đó viết rõ điều kiện
áp dụng là công vụ được thực hiện đúng pháp luật (rechtmäßige Ausübung).
Tức là không thể mặc nhiên kết tội này cho người chống lại nếu công vụ được thực
hiện sai pháp luật. Điều kiện "thực hiện đúng pháp luật" được
duy trì trong Điều 113 suốt 98 năm, "sống sót" qua 4 lần chỉnh sửa Bộ
luật hình sự, kể cả lần chỉnh sửa vào năm 1943 dưới thời phát xít. Đó là một yếu
tố pháp lý quan trọng để bảo vệ người dân trước khả năng lạm dụng quyền lực của
bộ máy công quyền. Chưa yên tâm với điều kiện đó, năm 1970 các nhà lập pháp Cộng
hòa Liên bang Đức đã thay nó bằng một điều khoản rõ ràng hơn, có tác dụng bảo vệ
người dân triệt để hơn, đó là:
"Hành
động (chống người thi hành công vụ) không thể bị xử phạt theo quy định này
(tức là quy định trong Điều 113) nếu việc thực hiện công vụ không đúng
pháp luật."
Bộ luật hình sự của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa
Việt Nam được Quốc hội thông qua năm 1985 (trong
đó tội chống người thi hành công vụ được quy định ở Điều 205) và được sửa đổi, bổ sung 4 lần trong các năm 1989, 1991, 1992 và 1997. Năm 1999 Quốc hội thông qua Bộ luật hình sự mới (trong đó tội chống
người thi hành công vụ được quy định ở Điều 257) và nó đã được sửa đổi, bổ sung vào năm 2009. Trong cả hai lần ban hành và qua 5
lần chỉnh sửa Bộ luật hình sự, điều về tội chống người thi hành công
vụ chỉ quy định một chiều về việc xử phạt đối với những
người chống người thi hành công vụ, mà không nhắc đến điều kiện công vụ
phải được "thực hiện đúng pháp luật", lại càng không có khoản
nào để bảo vệ dân oan, buộc phải tự vệ trước hành động vi phạm pháp luật của
người mang danh thi hành công vụ. Xét về phương diện này thì Bộ luật hình sự hiện hành của Việt Nam không bằng Bộ luật hình sự của Đức ra đời cách đây 141 năm, chỉ 4 tháng
sau khi Đế chế Đức (Deutsches Kaiserreich, 1871-1918) được
thành lập.
Khiếm
khuyết này của Bộ luật hình sự khiến các "con
trời" càng dễ ngộ nhận và tùy tiện chụp lên đầu người dân tội chống người
thi hành công vụ. Bị công an đánh mà giơ tay che chắn theo phản xạ tự nhiên
cũng có thể bị ghép cho tội ấy. Một số công an không mặc quân phục, không xuất trình
giấy tờ chứng minh tư cách công an, nhưng nếu người dân nghi ngờ và không tuân
theo đòi hỏi của họ, thì họ cũng có thể nổi nóng, vu cho người dân tội chống đối.
Trong vụ Tiên Lãng, khi xảy ra đụng độ, bà Nguyễn Thị Thương (vợ ông Vươn) và
bà Phạm Thị Báu (tức Hiền, vợ ông Quý) đứng trên đê, từ xa nhìn lại. Vậy mà hai
người phụ nữ yếu ớt ấy lại bị khởi tố về tội chống người thi hành công vụ.
Dù
xã hội văn minh đến đâu thì cũng vẫn xảy ra việc người thi hành công vụ vô tình
hay cố ý vi phạm pháp luật, khiến người dân phải tự vệ một cách chính đáng. Cho
nên, những quy định pháp lý như trong Bộ luật hình sự của
Đức để bảo vệ người dân trước khả năng công quyền bị lạm dụng là thực sự
cần thiết. Ở Việt Nam, khi mà sự tha hóa và tham nhũng đã làm ô nhiễm bộ máy
công quyền, công chức quá thiếu hiểu biết về pháp luật, tòa án hay xét xử tùy
tiện, thì những quy định để bảo vệ dân oan lại càng bức thiết. Rõ ràng, các
nhà lập pháp đang nợ nhân dân việc sửa đổi Điều 257 (về tội chống người
thi hành công vụ) của Bộ luật hình sự hiện hành, để đáp ứng đòi hỏi cấp bách của cuộc sống.
Ngay cả với quy định hiện nay của Bộ luật
hình sự thì cũng không thể đơn giản buộc cho những người trong gia đình họ
Đoàn tội chống người thi hành công vụ, nếu không chứng minh được rằng việc
cưỡng chế là một công vụ đúng đắn, được thi hành theo đúng quy định của pháp luật,
và mọi người được huy động đều có đủ tư cách pháp lý để tham gia. Khi quyết định
thu hồi đất là sai thì việc cưỡng chế cũng sai. Cho dù coi quyết định thu hồi đất
của gia đình ông Đoàn Văn Vươn là đúng, thì việc lực
lượng cưỡng chế có trang bị vũ khí hiện đại tự tiện tiến vào khu đất không thuộc diện thu hồi và phá hủy
ngôi nhà của ông Đoàn Văn Quý nằm trên mảnh đất đó là hoàn toàn sai.
Theo
Quyết định thu hồi số 461/QĐ-UBND và Quyết định cưỡng chế số 3307/QĐ-UBND của UBND huyện Tiên Lãng thì phạm vi cưỡng chế chỉ là 19,3 ha đã
được giao cho gia đình ông Vươn theo Quyết định số 220/QĐ-UBND.
Những người họ Đoàn không hề có mặt trên diện tích 19,3
ha ấy, không cản đường vào khu vực ấy, nên không thể nói là họ chống
lại lực lượng cưỡng chế, nếu lực lượng này chỉ tiến hành cưỡng chế theo đúng Quyết
định số 3307/QĐ-UBND. Anh em họ Đoàn chỉ ở trong nhà của mình, trên mảnh đất
hợp pháp của mình, vì vậy họ có quyền tự vệ nếu có người tấn công họ.
Mục
tiêu thực sự của cuộc cưỡng chế ở Tiên
Lãng ngày
5/1/2012 là gì? Hãy xem An ninh Thủ đô 5/1/2012 tường thuật:
"Trước đó vào lúc 7 giờ 30, đoàn công tác của
UBND huyện Tiên Lãng gồm hơn 100 CBCS Công an, quân đội
và Bộ đội Biên phòng và đại diện các ban ngành chức năng tổ chức cưỡng chế diện tích đất hơn 50 ha đầm nuôi trồng thủy sản, trồng
cây ăn quả tại vùng bãi bồi ven của Đoàn Văn Vươn (SN 1960) đã đấu thầu
nhiều năm nhưng đến nay đã hết hạn và không chịu đóng thuế
trong thời gian dài."
"Để
đảm bảo an toàn cho đoàn công tác cưỡng chế, một tổ
công tác bí mật tiếp cận ngôi nhà của Vươn xây dựng trên diện tích đất
này thì bất ngờ một quả mìn tự chế phát nổ hất
văng 2 CBSC công an huyện Tiên Lãng làm bất tỉnh tại chỗ nhưng rất may là không
gây thương vong."
"... khi tổ công tác vừa áp
sát ngôi nhà thì bất ngờ từ trong nhà Vươn cùng người nhà chĩa súng bắn đạn hoa cải liên tiếp nhả đạn vào lực lượng chức
năng, làm 4 Cán bộ chiến sỹ Công an và một số cán bộ chiến sỹ quân đội bị thương."
Như
vậy, ngay từ đầu người ta đã định cưỡng đoạt toàn bộ diện tích đất mà gia
đình ông Đoàn Văn Vươn đang sử dụng (tức bao gồm cả 21 ha không có quyết định
thu hồi). Điều này cũng được Chủ tịch UBND huyện Tiên Lãng Lê Văn Hiền đề cập
trong cuộc họp báo chiều ngày 5/1/2012. Hơn nữa, lực lượng vũ
trang đã chủ động tiếp cận ngôi nhà của ông Đoàn Văn Quý (mà An ninh Thủ
đô gọi là "ngôi nhà của Vươn"), nằm trên diện tích 21 ha không thuộc diện thu hồi. Có
nghĩa là ngôi nhà vô can và hợp pháp ấy đã bị xác định là mục tiêu tấn công,
trước khi người nhà họ Đoàn có bất cứ biểu hiện chống đối nào. Chỉ khi lực
lượng vũ trang tiếp cận ngôi nhà của ông
Quý thì quả mìn mới phát nổ và sau đó, khi lực lượng ấy lại áp sát ngôi nhà thì đạn hoa cải mới bắn
ra.
Làm sao có thể biện minh được việc huy động lực lượng công an và
quân đội để tấn công vào nhà đất hợp pháp của công dân như vậy? Chuyện "không
chịu đóng thuế trong thời gian dài" được đưa ra không chỉ để bổ sung
thêm tội, mà có lẽ để biện hộ cho việc chiếm cả diện tích 21 ha chưa hết hạn cho
thuê. Cái mẹo không chịu nhận tiền thuế của dân để sau này dễ bề "gây sự"
đã trở thành kinh điển từ lâu. Có điều, dân đóng thuế thì không chịu nhận, rồi
lại vu cho dân không chịu đóng thuế, thì quá vô liêm xỉ.
Nếu
lực lượng cưỡng chế chỉ tới diện tích 19,3 ha ghi trong Quyết định thu hồi số
461/QĐ-UBND và Quyết định cưỡng chế số 3307/QĐ-UBND, không tùy tiện tiến
vào khu vực 21 ha mà quyền quản lý và sử dụng
hợp pháp hoàn toàn thuộc về anh em họ Đoàn, không tiếp cận ngôi nhà của
ông Quý, thì mìn đã không nổ, súng đã không bắn và do đó không có ai bị
thương cả. Vậy thì, nói cho cùng, ai mới là người phải chịu trách nhiệm về việc
4 cán bộ, chiến sĩ công an và 2 cán bộ quân đội bị thương? Nếu có tội giết
người trong vụ này, thì ai mới là người phải chịu tội ấy?
Giả
sử công vụ không vi phạm pháp luật hiện hành, thì khi phán xét về tội
chống người thi hành công vụ cũng không thể bỏ qua khía cạnh đạo lý. Vâng,
có một thứ cao hơn cả pháp luật, bền hơn cả chế độ, đó là đạo lý. Đất đã
giao cho dân sử dụng bao nhiêu năm nay, dân đã đổ biết bao công sức và tiền của
để cải tạo và gây dựng, bây giờ chính quyền thu hồi mà không bồi thường, rồi giao
cho cá nhân khác, thì chẳng đạo lý nào chấp nhận được.
Trước
khi lên án một hành động chống người thi hành công vụ thì nên lưu ý là tội
này không phải là một phạm trù tuyệt đối, không phải là vĩnh cửu. Trên
cương vị cầm quyền thì thấy hành động chống người thi hành công vụ rõ
ràng là một tội cần bị trừng trị nghiêm khắc, không thể bàn cãi. Nhưng nếu chịu
khó lục lại trí nhớ, quay về thuở còn đang tìm cách giành chính quyền bằng bạo
lực, sẽ thấy thời ấy quân ta cũng đã từng chống người thi hành công vụ và
giết người thi hành công vụ của chế độ cũ.
Những
tiếng nổ tuyệt vọng làm cộng đồng tỉnh giấc, nhưng cũng làm tan nát một đại gia
đình. Giá mà mấy anh em họ Đoàn kiềm chế hơn… Nhưng liệu họ còn có cách hành động
nào khác, để cứu thành quả lao động vất vả mấy chục năm và bao tỷ đồng còn vay
nợ, hay không? Khiếu nại với chính quyền, với tòa án địa phương ư? Thì họ đã làm rồi. Không thu được kết quả cần thiết,
mà lại còn bị lừa. Khiếu nại với chính quyền trung ương và tòa án cấp
cao hơn ư? Bao dân oan kéo về thủ đô đã bị trả về địa phương với lý do không được
khiếu kiện vượt cấp. Hơn nữa, kết quả của một số vụ xét xử gần đây cho người
dân cảm giác rằng cấp nào xử cũng vậy. Gửi kiến nghị cho X, Y, Z ư? Ngay cả các
bậc đại công thần gửi tâm thư cũng không nhận được hồi đáp, các trí thức có tên
tuổi kiến nghị hay khởi kiện cũng không được trả lời tử tế, vậy thì những người
như ông Vươn (đến cả cấp xã cũng coi là dân ngụ cư nên không cần quan tâm)
có thể hy vọng gì? Có lẽ gia đình họ Đoàn cảm thấy mọi nẻo đường hợp pháp đều
đã bị chặn đứng, nên đành liều tự xử. Trách nhiệm gây ra cảnh bất công cho gia
đình ông Đoàn Văn Vươn có thể thuộc về một số người trong bộ máy chính quyền ở
Hải Phòng. Nhưng để cho người dân mất hết niềm tin, manh động trong tuyệt
vọng, thì trách nhiệm chắc chắn không chỉ nằm ở cấp Hải Phòng.
Giá
mà gia đình họ Đoàn kiên trì hơn, như bao người theo đòi công lý suốt hàng chục
năm không nản… Nhưng cũng nên thông cảm với sự sốt ruột của những người chăn
nuôi hải sản, không thể bỏ rơi đàn tôm cá hàng năm trời. Vả lại, khi trời chưa
kịp yên, sóng chưa kịp lặng, mà những người mới tiếp quản đã vơ vét hàng chục tấn hải sản, thì làm
sao có thể đòi hỏi những người chủ thực sự của khối tài sản ấy điềm tĩnh được.
Hoàn cảnh của họ cũng giống như người mẹ nghe tiếng con trẻ khóc thét trong căn
phòng kẹt khóa bị hỏa hoạn, hiển nhiên là cuống cuồng tìm mọi cách để phá cửa
ngay lập tức.
Giá
mà người nhà họ Đoàn không bắn vào lực lượng tham gia cưỡng chế, vì họ chỉ là những
người thừa hành… Tiếc thay, không mấy khi kẻ cầm đầu ra trận. Cũng như trong
các cuộc chiến tranh, cho dù mệnh lệnh sai trái được phát ra từ bộ máy đầu não
xa xôi, thì đạn cũng chỉ nhằm vào những người lính đối phương đang lăn lộn trên
chiến trường. Không nhằm vào đó thì biết nhằm vào đâu nữa?
*
*
*
Trên
đây tôi chỉ trao đổi một số khía cạnh liên quan đến khái niệm "công vụ",
"thi hành công vụ" và "tội chống người thi hành công vụ".
Hy vọng chúng sẽ có ích, không chỉ cho việc xem xét vụ Tiên Lãng.
Tiếng
nổ đã phát ra, không thu lại được nữa. Vấn đề còn lại chỉ là đánh giá và xử lý như
thế nào? Nếu cương quyết trừng trị bọn lộng hành, tham nhũng và trả lại công bằng
cho người dân, thì mới hy vọng khôi phục được niềm tin của nhân dân và sự bình
yên của xã hội. Nếu tiếp tục lấp liếm, xử lý một cách thiên vị cho phía công
quyền và dồn tội lên đầu nạn nhân, thì sẽ góp phần đẩy đất nước vào một chu kỳ
loạn lạc. Bức xúc dồn nén khắp nơi, có lẽ đã ở mức tới hạn của phản ứng dây
chuyền.
Tiếng
nổ ở Tiên Lãng ngày 5/1/2012 chỉ dừng lại ở vai trò cảnh tỉnh để phục hồi công
bằng và luân lý, hay sẽ trở thành tiếng nổ khởi đầu cho loạt nổ lan rộng tiếp
theo, điều đó phụ thuộc vào cách xử lý của những người cầm quyền đối với vụ Tiên
Lãng.
Hà
Nội, ngày 28/1/2012