Mạn bàn về an toàn điện hạt nhân
Hoàng Xuân Phú
Trong
buổi họp báo đầy ứ nước mắt, được tổ chức ngày 29/4/2011, Giáo sư Toshiso
Kosako nghẹn ngào công bố quyết định từ chức cố vấn nguyên tử cho thủ tướng, để
phản đối cách xử lý khủng hoảng hạt nhân của chính phủ Nhật Bản. Hai ngày sau, trong chuyến viếng thăm và xin lỗi dân làng Iitate, phó chủ
tịch Norio Tsuzumi của TEPCO (Tokyo
Electric Power Company) cho rằng thảm
họa hạt nhân Fukushima là do con người gây ra. Là một trong những người lãnh đạo cao nhất của
chính công ty điều hành nhà máy điện
hạt nhân Fukushima Daiichi,
nơi xảy ra thảm họa 3/2011, ông
Tsuzumi có đầy đủ căn cứ xác thực khi thừa nhận như vậy.
Thời điểm sóng thần lùi dần xa... Đã đến lúc đưa tình đoàn kết và lòng
vị tha trở về đúng vị trí hợp lý, để nghiêm khắc nhìn nhận trách nhiệm của con
người đối với thảm họa hạt nhân Fukushima, thay vì đổ lỗi tất cả cho thiên
nhiên.
Chuyện buồn trên “đất nước mặt trời mọc”
Trong suốt 40 năm xây dựng và vận hành, nhà máy điện hạt nhân Fukushima
Daiichi đã phải chứng kiến biết bao sai lầm mang tính chủ quan của con người.
Kỹ sư Shiro Ogura, người đã tham gia xây dựng 5 trong số 6 tổ máy, cho biết lúc
xây dựng tổ máy số 1 vào năm 1967 người ta đã mặc nhiên sử dụng thiết kế của
General Electric, vốn được dành cho nhà máy đặt trên đất Mỹ. Khi xây dựng các
tổ máy tiếp theo người ta mới sửa đổi thiết kế để thích nghi với điều kiện đặc
thù của Nhật Bản, song vẫn không hề tính đến đến việc sóng thần có thể xảy ra ở
vùng biển này. Sau trận động đất 6,6 độ Richter vào năm 2007, TEPCO mới đưa ra
biện pháp đề phòng, nhưng hệ thống làm lạnh cũng chỉ được cải tiến để đáp ứng
được động đất 8 độ Richter và xây dựng tường chắn sóng chỉ cao 5,7 mét. Để thấy được mức độ chu đáo của giải pháp tăng cường này, lưu ý rằng
riêng trong thế kỷ 20 đã có 5 trận động đất kèm theo sóng thần lớn ở vùng biển
Nhật Bản, cụ thể là vào các năm 1923 (động đất 7,9 độ Richter, sóng thần cao
tới 13,0 mét), 1933 (động đất 8,4 độ Richter, sóng thần cao tới 29,0 mét), 1944
(động đất 8,1 độ Richter, sóng thần cao tới 10,0 mét), 1983 (động đất 7,8 độ
Richter, sóng thần cao tới 14,5 mét) và 1993 (động đất 7,7 độ Richter, sóng
thần cao tới 54,0 mét).
Kỹ sư Mitsuhiko Tanaka, người từng tham gia đội hình của Hitachi chế
tạo nồi hơi trị giá 250 triệu USD cho tổ máy số 4, kể rằng thành nồi đã bị biến
dạng sau khi tôi luyện. Thay vì hủy bỏ sản phẩm bị hỏng theo đúng quy định của
pháp luật, Tanaka đã giúp biến báo, và được Hitachi thưởng 3 triệu Yên cùng với
bằng ghi nhận “công trạng đặc biệt”. Chịu tác động tâm lý nặng nề từ thảm họa
Chernobyl, Tanaka đã thú nhận hành vi sai trái của mười năm trước với Bộ Kinh
tế, Thương mại và Công nghiệp Nhật Bản. Nhưng Hitachi phủ nhận, còn chính phủ
lại từ chối điều tra. May mà “quả bom nổ chậm” (theo cách gọi của Tanaka) lại
tạm ngừng hoạt động để bảo dưỡng trong thời gian xảy ra động đất và sóng thần.
“Ai có thể biết rằng điều gì sẽ xảy ra nếu lò phản ứng này đang hoạt động?” –
Tanaka bình luận – “Tôi không biết liệu nó có thể trụ nổi trước một trận động
đất như vậy hay không.”
TEPCO từng ngụy tạo báo cáo bảo dưỡng nhà máy điện hạt nhân suốt hai
thập kỷ và che dấu cơ quan giám sát hàng trăm sự cố. Khi sự việc bị bại lộ vào
năm 2002, lãnh đạo TEPCO đã phải từ chức. Từ đó đến năm 2007 có thêm ít nhất 6
lần phải tắt máy khẩn cấp tại nhà máy Fukushima Daiichi và một sự cố nguy kịch
kéo dài 7 giờ ở lò phản ứng số 3, nhưng chúng đều bị lãnh đạo mới của TEPCO
giấu giếm.
Trong báo cáo gửi NISA (Nuclear and Industrial Safety Agency) – cơ quan giám sát an toàn hạt nhân của Nhật Bản – ngày 28/2/2011,
TEPCO thừa nhận rằng 11 năm qua không thực hiện kiểm tra định kỳ 33 bộ phận của
nhà máy điện hạt nhân Fukushima Daiichi, trong đó có máy phát điện dự trữ, bơm
làm lạnh, van kiểm tra nhiệt độ... NISA yêu cầu TEPCO phải đưa ra kế hoạch khắc phục trước ngày 2/6/2011. Nhưng thiên tai đã không kiên trì chờ đợi đến thời hạn ấy.
Vào lúc 14h46 ngày 11/3/2011 trận động đất mang tên Tohoku mạnh 9 độ
Richter đã xảy ra ngoài
bờ biển Miyagi. Trận động đất mạnh nhất kể từ ngày có thống kê ở Nhật Bản gây
nên cơn sóng thần cao trên 10 mét, thậm chí có nơi cao tới 38 mét. Nằm cách tâm chấn khoảng 150 km, nhà máy điện hạt nhân Fukushima
Daiichi hứng chịu đợt sóng thần cao 14–15 mét, tràn qua tường chắn sóng chỉ cao
vẻn vẹn 5,7 mét, nhấn bốn tổ máy số 1 đến 4 chìm sâu dưới nước 4–5 mét và hai
tổ máy số 5 và 6 chìm dưới nước 1–2 mét.
Ngay sau khi động đất xảy ra, ba lò phản ứng số 1–3 đã tự động tắt
nhanh, còn ba lò phản ứng số 4–6 đang được kiểm tra định kỳ nên không hoạt
động. Tuy nhiên, toàn
bộ hệ thống cung cấp điện lần lượt bị tê liệt và hệ thống làm lạnh bị vô hiệu hóa, khiến các thanh nhiên liệu bị
nóng lên quá mức cho phép, kể cả trong tâm lò lẫn trong bể làm lạnh (dành cho
các thanh nhiên liệu đã qua sử dụng). Hậu quả là nhiều vụ nổ và hỏa hoạn xảy ra, làm hư hại các nhà lò phản
ứng số 1–4, và một phần các thanh nhiên liệu bị nóng chảy. Bụi phóng xạ tung ra, gây ô nhiễm nặng trên diện rộng, đến mức
Chính phủ Nhật Bản yêu cầu người dân sống trong vòng 30 km quanh nhà máy phải
sơ tán
và quy định khu vực bán kính 20 km là vùng cấm. Căn cứ vào
mức độ ô nhiễm phóng xạ, chủ tịch Ủy ban Điều hành Hạt nhân Hoa Kỳ (Nuclear
Regulatory Commission) Gregory Jaczko cho rằng khu vực sơ tán như vậy là quá
hẹp và phải nâng bán kính không an toàn lên ít nhất 80 km (khu vực có khoảng
1,9 triệu người sinh sống).
Lò phản ứng số 4 đang được bảo dưỡng nên không hoạt động và không hề
chứa nhiên liệu hạt nhân. 229 tấn nhiên
liệu (trong đó 35 tấn chưa qua sử dụng) được ngâm trong bể làm lạnh, nằm trong
cùng tòa nhà. Tuy nhiên liệu
hạt nhân ở trạng thái bảo quản tĩnh, lẽ ra phải tương đối an toàn, nhưng khoảng
6h00 ngày 15/3 đã xảy ra một vụ nổ, khoét trên tường nhà hai lỗ rộng khoảng 8
mét vuông và gây thiệt hại nặng nề. Điều này cho thấy sự cố hạt nhân có thể xảy ra ngoài lò phản ứng, tức
là không phụ thuộc vào việc lò phản ứng hạt nhân thuộc thế hệ nào.
Khi xảy ra sự cố, đội ngũ quản lý và chuyên gia kỹ thuật tưởng chừng
rất lão luyện trở nên lúng túng và bất lực. Họ dùng máy bay và xe cứu hỏa để
phun nước làm lạnh, nhưng không mấy tác dụng, vì chỉ một lượng nhỏ rơi đúng chỗ
cần đến. Rồi phải huy động cả những cỗ máy bơm bê tông khổng lồ từ Đức và Mỹ để
bơm nước. Lúc đầu họ sử
dụng nước ngọt, nhưng nguồn nước này nhanh chóng cạn kiệt, nên phải ngừng phun
nước vào lò phản ứng số 1 lúc 14h53 ngày 12/3/2011. TEPCO gửi fax cho NISA vào
hồi 15h18 để xin phép dùng nước biển thay thế, nhưng NISA lại không chuyển ngay cho văn phòng thủ tướng. Gần 3 tiếng
sau (18h) thủ tướng Naoto Kanmới bắt
đầu thảo luận với các bộ trưởng, trong khi một vụ nổ khí hy-đrô đã xảy ra tại lò số 1 vào lúc 15h36.
Chính phủ yêu cầu tiến hành các bước chuẩn bị, nhưng TEPCO lại nhầm hiểu đấy là
hiệu lệnh bắt đầu triển khai, nên cho phun nước biển từ 19h04. 21 phút sau,
lãnh đạo TEPCO ra lệnh dừng lại vì phát hiện ra thủ tướng vẫn chưa phê chuẩn.
Mặc dù vậy, trái với lệnh của cấp trên, ông Masao Yoshida – lãnh đạo nhà máy
Fukushima Daiichi – vẫn tiếp tục cho phun nước biển vào lò phản ứng, trong khi
TEPCO ra thông báo là quá trình phun nước đã bị gián đoạn 55 phút. Sở dĩ họ phải lưỡng lự như vậy là vì nước mặn sẽ làm hỏng các thiết
bị, hơn nữa khi muối kết tủa thì cản trở quá trình lưu thông làm lạnh tiếp
theo. Sau hai tuần, một lượng muối khổng lồ đọng lại trong các lò phản ứng. Richard Lahey – người phụ trách nghiên cứu giải
pháp an toàn cho lò phản ứng nước sôi khi General Electric lắp đặt chúng ở
Fukushima Daiichi
– ước lượng có khoảng 26 tấn muối kết tủa trong lò phản
ứng số 1, và khoảng gấp đôi lượng ấy kết tủa trong lò số 2 và 3.
Kể dài dòng về diễn biến trên để thấy được bộ máy quản lý từ cơ sở tới
trung ương ứng phó thế nào trước sự cố hạt nhân. Những quyết định liên quan là
vô cùng hệ trọng và có thể kéo theo những hậu quả khủng khiếp, ảnh hưởng nặng
nề đến hàng triệu người, trong hàng chục năm trời. Vì vậy, chúng vượt ra khỏi
thẩm quyền của các cấp cơ sở, bị đẩy lên cấp trung ương, đến tay thủ tướng. Dù
thủ tướng tài giỏi đến đâu thì cũng không đủ hiểu biết chuyên môn để đưa ra
quyết định ngay lập tức, nên phải bàn bạc với các bộ trưởng. Họ cũng không khá
hơn nhiều, nên phải tham khảo ý kiến của các chuyên gia. Từ lúc cơ sở gửi báo
cáo và xin chỉ thị, đến khi thủ tướng nhận được thông tin, triệu tập cố vấn để
bàn bạc và ra được phán quyết, thì cũng phải mấy tiếng trôi qua, nếu không mất
cả ngày. Nhưng sự cố hạt nhân diễn ra cực nhanh, không chờ đợi con người thực
hiện xong cái quy trình ra quyết định ấy. Trong trường hợp lò phản ứng số 1 của
nhà máy Fukushima Daiichi, từ lúc TEPCO gửi fax xin phép dùng nước biển để giảm
nhiệt đến lúc xảy ra vụ nổ chỉ có 18 phút, trong khi phải sau 5 tiếng mới nhận
được trả lời của thủ tướng và NISA. Điều gì sẽ xảy ra nếu người ta không hiểu lầm lệnh của chính phủ, cho
phun nước biển từ 19h04, và nếu lãnh đạo nhà máy tuân lệnh TEPCO dừng lại 55
phút? Oái oăm thay, thiệt hại được hạn chế ít nhiều nhờ cấp dưới hành động
không đúng với lệnh cấp trên. Câu hỏi mang tính nguyên tắc là: Liệu có bộ máy
quản lý nào trên thế giới có khả năng phản ứng kịp thời và chính xác đến mức
đáp ứng được diễn biến cực nhanh và vô cùng phức tạp của sự cố hạt nhân không? Chắc là không!
Ngày 12/4/2011 cơ quan giám sát an toàn hạt nhân NISA đã phải nâng đánh
giá mức độ nghiêm trọng của khủng hoảng hạt nhân từ cấp 5 lên cấp 7 theo thang
bậc INES (International Nuclear Event Scale), tức là mức cao nhất, trong quá khứ
mới được dùng để đánh giá thảm họa Chernobyl.
Tiến sỹ Hans-Josef Allelein, giáo sư về công nghệ và an toàn của lò
phản ứng hạt nhân tại trường đại học danh tiếng RWTH Aachen (CHLB Đức), đánh giá rằng người Nhật sẽ phải chiến đấu với hậu quả của thảm họa
Fukushima ít nhất 30 năm nữa cho đến khi hoàn toàn kiếm soát được tình hình, và
khu vực xung quanh nhà máy Fukushima Daiichi sẽ bị ô nhiễm bởi đồng vị phóng xạ
Caesium-137 ít nhất 200 đến 300 năm nữa.
Hậu quả nặng nề của thảm họa hạt nhân buộc người ta phải đặt câu hỏi về
trách nhiệm của TEPCO và các cơ quan quản lý. Không ai có thể khẳng định các
máy móc bị TEPCO bỏ mặc suốt 11 năm qua có còn hoạt động tốt trước ngày
11/3/2011 hay không. Chỉ biết số liệu đo đạc cho thấy rằng có thể một số thiết
bị then chốt đã bị hỏng ngay sau khi động đất, nghĩa là trước khi sóng thần ập
tới. Và sự tê liệt
của hệ thống cấp điện cùng với hệ thống làm lạnh sau trận sóng thần là một yếu
tố then chốt dẫn đến thảm họa hạt nhân. Điều không thể chấp nhận là những người
có trách nhiệm đã làm ngơ trước nhiều cảnh báo, đến từ nhiều nguồn khác nhau.
Ví dụ: Năm 1990, NRC (Nuclear Regulatory Commission) – cơ quan quản lý an toàn
hạt nhân của Mỹ – đã từng cảnh báo rằng đối với các nhà máy điện nằm ở những
vùng hay có động đất thì khả năng các máy phát điện dự trữ và hệ thống làm lạnh
bị tê liệt là rất cao. NISA đã nhắc lại điều này trong báo cáo năm 2004. Nhưng TEPCO đã bỏ ngoài tai, để rồi bắt biết bao người phải gánh chịu
tai họa khủng khiếp, không gì bù đắp nổi.
TEPCO đã phạm nhiều sai lầm, nhưng đó không phải là địa chỉ duy nhất
đáng bị chỉ trích. Giới am hiểu không thể hài lòng với cách xử lý khủng hoảng
của những người có trách nhiệm. Ủy ban An toàn Hạt nhân Nhật Bản (Japan’s
Nuclear Safety Commission) đã không điều động một ai trong số 40 chuyên gia của
họ đến hiện trường, mặc dù kế hoạch quốc gia về đề phòng thảm họa quy định phải
làm như vậy. Thủ tướng Naoto
Kan trực tiếp chỉ đạo, nhưng điều đó không chỉ đem lại tác dụng tốt cho công
việc cứu hộ.
Trong cuộc họp báo ngày 10/5/2011, thủ tướng Naoto Kan thừa nhận: “Cùng
với Tokyo Electric Power Co, Chính phủ – tổ chức đã thúc đẩy năng lượng hạt
nhân với tư cách chính sách quốc gia – chịu trách nhiệm lớn về sự cố hạt nhân.”
Ông tuyên bố sẽ không lĩnh khoản lương 20.200 USD/tháng và khoản thưởng 24.600
USD mỗi năm 2 lần dành cho thủ tướng cho đến khi giải quyết ổn thỏa cuộc khủng
hoảng hạt nhân.
Những điều kể trên không liên quan đến máy móc, không phụ thuộc vào tầm
phát triển của công nghệ, mà chỉ thể hiện những nhược điểm muôn thuở của con
người. Cho dù ở thế kỷ 20 hay 21, ở phương Đông hay phương Tây, dưới chế độ xã
hội chủ nghĩa hay tư bản chủ nghĩa, thì đều không thể tránh được hoàn toàn
những hạn chế mang tính cố hữu thuộc về con người. Và đấy là hiểm họa tiềm
tàng, luôn song hành với điện hạt nhân.
Nhắc lại những chuyện ấy không phải để hạ thấp nước Nhật và người Nhật.
Ngược lại, sự ứng xử bình tĩnh, tính kỷ luật và tinh thần tương trợ hiếm có của
người dân Nhật trong thảm họa vừa qua đã làm hàng tỉ trái tim trên thế giới
rung động và ngưỡng mộ. Mượn chuyện buồn của bạn chỉ để
giúp mình trả lời một câu hỏi thiết thân: Với một nền khoa học– công nghệ siêu
đẳng, với một đội ngũ chuyên gia tài năng có nhiều kinh nghiệm và kỷ luật cao,
với một bộ máy lãnh đạo–quản lý giàu lòng tự trọng, vậy mà Nhật Bản cũng không
thể tránh được hết những hạn chế của yếu tố con người, để dẫn đến thảm họa hạt
nhân, thế thì ở đất Việt sẽ thế nào?
Nỗi trăn trở của người Đức
Lo ngại trước hiểm họa hạt nhân và hậu quả lâu dài đối với con người và
môi trường, phong trào phản đối điện hạt nhân ở Đức hình thành trong những năm
1970 và được hưởng ứng rộng rãi sau thảm họa Chernobyl 1986.
Năm 2002 chính phủ liên minh giữa Đảng Xã hội dân chủ Đức (SPD) và Đảng
Xanh (Gruene) của thủ tướng Gerhard Schroeder đã sửa đổi Luật nguyên tử, mở đầu
cho quá trình rút khỏi năng lượng hạt nhân. Theo đó, không được xây dựng mới
các nhà máy điện hạt nhân thương mại, khống chế thời gian hoạt động của các nhà
máy điện hạt nhân đang tồn tại là 32 năm kể từ ngày khánh thành và lượng điện
được sản xuất trong các nhà máy hạt nhân của Đức kể từ 1/1/2000 không được vượt
quá 2,62 triệu gigawatt-giờ. Đến cuối năm 2005, 2 trong số 20 nhà máy điện hạt
nhân đã phải ngưng hoạt động vĩnh viễn. Số còn lại sẽ phải lần lượt đóng cửa
trước 2021–2022.
Vì sao chính phủ Schroeder có thể đưa ra chính sách “cực đoan” như vậy?
Vì họ hiểu rõ rằng không tồn tại thứ công nghệ điện hạt nhân có thể coi là an
toàn tuyệt đối. Cho đến nay loài người vẫn bất lực, chưa tìm nổi câu trả lời
hợp lý cho vấn đề xử lý chất thải hạt nhân. Trong một nước dân chủ, khó có thể
phớt lờ ý nguyện bảo vệ môi trường và sự sống của hàng chục triệu công dân, để
chôn bừa chất thải hạt nhân ở đâu đó, như một số nước vẫn làm. Luật của Đức cho
phép tạm trữ các thanh nhiên liệu đã qua sử dụng trong hầm xây cạnh nhà máy
trong 40 năm, nhưng thời gian đó trôi nhanh như chớp mắt, mà người ta vẫn chưa
tìm ra cách xử lý thỏa đáng.
Một trong những giải pháp được đề xuất là thiết lập các kho chứa chất
thải phóng xạ ở dưới các mỏ muối đã khai thác. Trong thời gian 1965–1992 người
ta đã thử nghiệm việc lưu trữ chất thải phóng xạ dưới mỏ Asse và đã đưa 46.930 m3 chất
thải xuống sâu 975 mét dưới mặt đất. Tháng 9/2008 các bộ liên quan thỏa thuận
sử dụng mỏ Asse làm kho chứa vĩnh viễn, nhưng đầu năm 2009 đã phải từ bỏ ý định
ấy sau khi phát hiện ra sự rò rỉ của dung dịch muối và nguy cơ sập mỏ. Người ta
dự định sẽ đưa lượng chất thải phóng xạ kể trên ra khỏi lòng đất. Nhưng rồi sẽ
chuyển chúng đi đâu? Sự kiện ấy khiến dư luận vốn đã lo ngại lại càng thêm lo
ngại.
Đại diện cho những lực lượng ủng hộ điện hạt nhân, chính phủ của ba
đảng Liên minh Dân chủ Thiên chúa giáo (CDU), Liên minh Xã hội Thiên chúa giáo
(CSU) và Đảng Dân chủ Tự do (FDP) do thủ tướng Angela Merkel đứng đầu đã sửa
lại Luật nguyên tử vào tháng 10/2010. Tuy vẫn khước từ việc xây dựng mới các
nhà máy điện hạt nhân, nhưng 7 nhà máy xây dựng trước năm 1980 được gia hạn
hoạt động thêm 8 năm và 10 nhà máy mới hơn được gia hạn hoạt động thêm 14 năm
so với thời hạn quy định dưới thời của chính phủ Schroeder. Ví dụ: Nhà
máy Neckarwestheim-2 khánh thành 1/1989 được kéo dài thời gian hoạt động đến
năm 2036.
Tất nhiên, các đảng đối lập phản đối, coi đó là một bước đi giật lùi,
còn các đảng cầm quyền thì vẫn kiên định lập trường ủng hộ điện hạt nhân.
Nhưng, chưa đầy 5 tháng sau, chấn động của thảm họa Fukushima 3/2011 đã làm
rung chuyển xã hội Đức và tạo ra bước ngoặc trong chính sách hạt nhân của chính
phủ Merkel. Thừa nhận rằng “Fukushima đã thay đổi quan điểm của tôi về năng
lượng hạt nhân”, thủ tướng Merkel đã đến với nhận thức mới là không thể khống
chế được nguy cơ hiểm họa của năng lượng hạt nhân. Từ chỗ cho
kéo dài hơn gấp đôi thời hạn tiếp tục hoạt động của các nhà máy hiện có, bà dự
kiến sẽ rút nhanh khỏi năng lượng hạt nhân. Ngày 14/3/2011 thủ tướng yêu cầu
ngay lập tức phải kiểm tra an toàn của tất cả 17 nhà máy điện hạt nhân và yêu
cầu 7 nhà máy cũ nhất phải tạm ngừng hoạt động 3 tháng.
Ngày 22/3/2011 thủ tướng Merkel lập ra Ủy ban Đạo đức (Ethikkommission)
để xem xét các khía cạnh đạo đức và kỹ thuật của năng lượng hạt nhân, chuẩn bị
một thỏa thuận xã hội để rút khỏi năng lượng hạt nhân và đề xuất quá trình
chuyển đổi sang các năng lượng tái tạo. Sau hơn 2 tháng làm việc, Ủy ban Đạo
đức đã trao cho thủ tướng bản kiến nghị, trong đó đề xuất nước Đức rút khỏi
năng lượng hạt nhân trong vòng 10 năm. Ủy ban cho rằng không thể hạn chế
được hậu quả của tai nạn hạt nhân, kể cả về không gian, thời gian và phạm vi xã
hội; để tránh được các tai nạn như vậy thì chỉ còn cách là không sử dụng điện
hạt nhân.
Trong cuộc họp kéo dài đến quá nửa đêm chủ nhật 29/5/2011, lãnh đạo của
ba đảng tham gia liên minh cầm quyền CDU, CSU và FDP đã đi đến thống nhất là
CHLB Đức sẽ rút ra khỏi năng lượng hạt nhân vào năm 2022. Cụ thể là ngừng ngay
hoạt động của 8 nhà máy,
9 nhà máy còn lại sẽ phải lần lượt đóng cửa trong thời gian từ 2015 đến
2021/2022.
Là một chính trị gia dày dạn kinh nghiệm, bà Merkel biết rõ việc đảo
ngược chính sách hạt nhân như vậy đồng nghĩa với công nhận quan điểm của phe
đối lập và phủ nhận lập trường mà đảng của bà vẫn theo đuổi. Điều đó sẽ tăng
điểm cho đối phương, vốn đang lên như diều gặp gió, và gia tăng bất lợi cho
đảng của bà, trong khi kỳ tổng tuyển cử đang đến gần. Song với
tư cách một nhà khoa học đã hoạt động trong lĩnh vực vật lý và hóa học, từng
nghiên cứu những đề tài liên quan đến công nghệ hạt nhân, Tiến sĩ
Angela Merkel không thể nhắm mắt phủ nhận nguy cơ tiềm tàng, luôn rình rập của
các nhà máy điện hạt nhân. Lương tâm thúc giục bà đặt quyền lợi của dân tộc lên
trên quyền lợi đảng phái, coi trọng sự an toàn của toàn dân hơn quyền lực và
lợi ích cá nhân.
Vậy là, chỉ 7 tháng sau khi sửa Luật nguyên tử để kéo dài thời gian
hoạt động của các nhà máy điện hạt nhân đến tận năm 2036, chính phủ liên minh
của ba đảng CDU, CSU và FDP đã hủy bỏ chính sách của chính mình để quay trở lại
với kế hoạch rút ra khỏi điện hạt nhân trong thời gian 2021–2022, điều mà chính
phủ tiền nhiệm của hai đảng SPD và Gruene đã thông qua 9 năm về trước. Quá
trình phủ định của phủ định ấy không đơn thuần là những pha lật cánh chính trị,
mà thể hiện sự trăn trở của xã hội Đức trước câu hỏi có nên tiếp tục sử dụng
năng lượng hạt nhân hay không. Quyết định lần này chắc sẽ rất bền vững và không
còn bị mang ra xét lại, bởi vì đó không phải là sự bột phát tức thời, mà là kết
quả của hàng chục năm cân nhắc kỹ lưỡng; đó không phải là quyết định đơn
phương, mà được tất cả các đảng tham gia Quốc hội Đức đồng thuận khi cùng ngộ
ra chân lý; đó không phải là sản phẩm của tư duy chính trị thuần túy, mà được
sinh ra bởi những trí tuệ khoa học, tại nơi mà Albert Einstein hoàn thành Lý
thuyết tương đối mở rộng (Berlin 1915) và Otto Hahn thành công trong việc phân
tách hạt nhân nguyên tử uranium (Berlin 1938).
Trông người lại ngẫm đến ta
Là một quốc gia đang phát triển nhanh từ trạng thái lạc hậu, Việt Nam
luôn đói năng lượng, đòi hỏi các nhà hoạch định chính sách phải tìm ra giải
pháp đáp ứng kịp thời. Điện hạt nhân là một phương án được nhiều người tính
đến. Điều đó không có gì là mới lạ, bởi lẽ đã có 441 lò phản ứng đang được vận
hành tại 31 nước trên thế giới, với tổng công suất 378.910 megawatt, chiếm
khoảng 14% sản xuất điện năng.
Nhưng việc lựa chọn điện hạt nhân cũng không phải là hiển nhiên, vì có
nhiều nước đã đến với điện hạt nhân rồi quay lưng lại. Năm 1978, theo kết quả
trưng cầu dân ý, Áo đã quyết định không đưa vào sử dụng nhà máy điện hạt nhân
Zwentendorf, mới xây dựng với giá khoảng 1 tỷ Euro, để rồi nói không với điện
hạt nhân đến tận bây giờ.
Năm 1980, Quốc hội Thụy Điển quyết định không xây thêm nhà máy mới và hoàn
thành việc rút khỏi điện hạt nhân vào năm 2010. Năm 1987, Italy quyết định đóng
cửa cả 3 nhà máy điện hạt nhân đang tồn tại (vào năm 1987 và 1990) và ngừng xây
dựng mới. Năm 1999, Bỉ thông qua luật rút khỏi năng lượng hạt nhân, theo đó sẽ
phải đóng cửa tất cả 7 lò phản ứng sau 40 năm hoạt động và không được xây mới.
Tây Ban Nha cũng thông qua luật không cho phép xây dựng nhà máy điện hạt nhân
mới...
Sau giai đoạn hồ hởi với điện hạt nhân cho đến thập kỷ 1970, tai nạn
Three Mile Island 1979
và Chernobyl 1986
đã cảnh tỉnh dư luận. Nay, thảm họa Fukushima lại cho thêm một lời cảnh cáo. Tổ
chức thăm dò dư luận Gallup International Association đã tiến
hành khảo sát trên 47 nước và thu được kết quả: Sau sự cố Fukushima 3/2011, tỷ
lệ ủng hộ điện hạt nhân đã giảm từ 57 xuống 49%, trong khi tỷ lệ phản đối tăng
từ 32 lên 43%. Ở Nhật Bản, tỷ lệ ủng hộ điện hạt nhân giảm từ 62 xuống 39% và
tỷ lệ phản đối tăng từ 28 lên 47%. Ở Đức, tỷ lệ ủng hộ giảm từ 34 xuống 26% và
tỷ lệ phản đối tăng từ 64 lên 72%.
Rõ ràng, trả lời câu hỏi lựa chọn điện hạt nhân hay không hoàn toàn
không đơn giản. Là một nước đi sau, Việt Nam có điều kiện học hỏi kinh nghiệm
của các nước đi trước để tránh những sai lầm mà họ từng mắc phải. Song chỉ học
được khi ý thức được rằng mình phải học và quyết tâm học tập một cách nghiêm
túc.
Trong số những người tham gia quyết định việc xây dựng nhà máy điện hạt
nhân, có bao nhiêu người có được kiến thức cần thiết về vấn đề phức tạp và hệ
trọng này? Có bao nhiêu người vì tinh thần trách nhiệm mà bỏ phiếu trắng, bởi
trung thực thừa nhận rằng mình không đủ hiểu biết để có thể lựa chọn giữa phiếu
thuận và phiếu chống? Trong số 439 đại biểu có mặt tại phiên họp Quốc hội sáng
25/11/2009, có 382 người tán thành thông qua nghị quyết về chủ trương đầu tư dự
án điện hạt nhân Ninh Thuận, 39 người không tán thành, và chỉ có 18 vị không
biểu quyết.
Sáu tháng sau khi Quốc hội thông qua chủ trương đầu tư, Nga đã được
chọn làm đối tác cung cấp công nghệ cho nhà máy điện hạt nhân Ninh Thuận 1. Tháng
10/2010, Nhật Bản được chọn làm đối tác để xây dựng nhà máy điện hạt nhân Ninh
Thuận 2.
Cả hai trường hợp đều không phải qua thủ tục đấu thầu quốc tế như thông lệ. Một vấn đề
vô cùng hệ trọng và phức tạp được quyết định nhanh chóng và dễ dàng, như thể đã
được an bài từ trước.
Để có được đồng thuận, người ta tuyên truyền là điện hạt nhân vừa rẻ,
vừa an toàn.
Không chỉ khẳng định về sự an toàn của các nhà máy điện hạt nhân sẽ được xây dựng
ở Việt Nam, ông Viện trưởng Viện Năng lượng Nguyên Tử Việt Nam Vương Hữu Tấn
còn đứng ra đảm bảo cả sự an toàn của nhà máy điện hạt nhân ở Trung Quốc. Trước
việc Trung Quốc khởi công xây dựng nhà máy điện hạt nhân ở Fangchenggang
(Phòng Thành Cảng – cách biên giới Việt Nam khoảng 45 km) vào ngày 30/7/2010, ông Tấn
nói rằng “người dân không nên lo lắng”, vì “phần lớn nhà máy điện hạt nhân ngày
nay sử dụng lò phản ứng thế hệ II và được xây dựng theo các quy trình an toàn
nghiêm ngặt nên khả năng xảy ra sự cố là rất thấp... Trong trường hợp trục trặc
xảy ra dẫn tới rò rỉ phóng xạ thì chất phóng xạ sẽ không thoát ra khỏi phạm vi
nhà máy. Vì thế, theo ông Tấn, khoảng cách 60 km từ nhà máy tại Phòng Thành
Cảng tới Quảng Ninh không gây nguy hiểm.” Điều đáng lưu ý là vào thời điểm mà
ông Vương Hữu Tấn thuyết phục người Việt yên tâm về nhà máy điện hạt nhân Phòng
Thành Cảng, được trang bị lò phản ứng CPR-1000 (do Trung Quốc thiết kế và chế
tạo), thì loại lò này chưa hề được khai thác trên thực tế, và phải 2 tháng sau
(20/9/2010)
Trung Quốc mới bắt đầu vận hành thương mại lò phản ứng CPR-1000 đầu tiên (ở
tỉnh Quảng Đông).
Chưa đầy 8 tháng sau khi ông Tấn nói “khả năng xảy ra sự cố là rất thấp” và
“chất phóng xạ sẽ không thoát ra khỏi phạm vi nhà máy”, cho nên “tại Nhật Bản,
có những nơi người dân sống cách nhà máy điện hạt nhân chừng 500 m”, thì thảm
họa Fukushima Daiichi ập tới. Bụi phóng xạ vượt hàng nghìn km, bay đến tận châu
Mỹ.
Ô nhiễm phóng xạ nghiêm trọng đến mức chính phủ yêu cầu hàng trăm nghìn người sống
trong bán kính 30 km quanh nhà máy phải đi sơ tán. Cách nhà
máy 40 km, làng Iitate cũng chịu ô nhiễm đến mức Greenpeace phải kêu gọi 7.000
người dân nên rời khỏi khu vực này.
Trái lại với khẳng định của ông Vương Hữu Tấn là “nếu có sự cố xảy ra
thì tất cả các chất phóng xạ sẽ bị giam hãm trong nhà lò phản ứng không phát
tán ra bên ngoài”,
các chuyên gia của nhà máy Fukushima Daiichi không tìm mọi cách để giam hãm các
chất phóng xạ, mà còn cố ý cho chúng thoát bớt ra ngoài, chấp nhận ô nhiễm
phóng xạ ở mức độ nhất định để tránh những vụ nổ nguy hiểm gấp bội. Chủ động
xả áp ra ngoài (controlled venting) khi áp suất bên trong vượt khỏi tầm kiểm
soát là một giải pháp không xa lạ đối với những người làm việc trong lĩnh vực
điện hạt nhân. Khi mà áp suất trong nhà lò phản ứng (containment) của tổ máy số 1
lên đến 840 kPa, hơn gấp đôi so với mức được phép tối đa là 400 kPa, thì khó mà tiếp tục kiên định
lập trường “giam hãm”.
Nếu quả thật họ tin là điện hạt nhân vừa rẻ, vừa an toàn thì sao không
“ưu tiên” xây dựng nhà máy giữa Hà Nội để trang trí cho thủ đô, mà lại “nhường”
cho Ninh Thuận? Nếu thiết lập một vành đai biệt thự xung quanh nhà máy điện hạt
nhân, dành những người đã góp phần quyết định, thì họ có đồng ý đến đó ở hay
không? Đấy không chỉ là phép thử lòng trung thực, mà còn là một biện pháp thiết
thực có thể góp phần hạn chế sự cố hạt nhân.
Một cường quốc như CHLB Đức mà không tìm ra được biện pháp hữu hiệu để
xử lý chất thải hạt nhân. Một cường quốc như Nhật Bản mà bất lực trong việc đảm
bảo an toàn nhà máy điện nguyên tử. Vậy Việt Nam định xử lý những vấn đề ấy thế
nào?
Sao có thể nuôi ảo tưởng rằng người Nga và người Nhật sẽ xây dựng cho
Việt Nam những nhà máy điện hạt nhân tuyệt đối an toàn, trong khi chính họ không
thể làm được điều đó trên tổ quốc mình? Lưu ý rằng 2 thảm họa hạt nhân lớn nhất
lịch sử (Chernobyl và Fukushima) đều xảy ra ở Nga và Nhật Bản. Trong số 17 sự
cố điện hạt nhân được coi là nghiêm trọng nhất của thế kỷ 20, có 4 vụ xảy ra ở
Nga (Kyshtym 1958, tai nạn tầu ngầm 1961, Chernobyl 1986, Sosnovy Bor 1992) và
4 vụ ở Nhật Bản (Tsuruga 1981, Monju 1995, Tokaimura 1997, Tokaimura 1999). Nếu tính
cả thảm họa Fukushima 3/2011 thì Nga và Nhật Bản chiếm đúng 50% trong số 18 sự
cố điện hạt nhân nghiêm trọng nhất, trong khi hai nước này chỉ chiếm 6,09% +
12,50% = 18,59% công suất điện hạt nhân và 7,26% + 12,47% = 19, 73% số nhà máy
điện hạt nhân của cả thế giới.
Đặc biệt, cả 4 sự cố nghiêm trọng mới nhất (1995, 1997, 1999, 2011) đều xảy ra
ở Nhật Bản (chỉ trong vòng 16 năm).
Người Nhật thường dành những thứ tốt nhất – nên đắt nhất – cho tiêu
dùng nội địa, và xuất khẩu những thứ rẻ hơn – nên không tốt bằng – ra nước
ngoài. Cái tốt nhất còn không tránh được thảm họa, thì cái rẻ hơn xuất sang
Việt Nam sẽ thế nào?
Sau khi thảm họa Fukushima xảy ra, năm nước Áo, Đan Mạch, Hy Lạp,
Irland và Luxemburg đòi toàn bộ châu Âu rút khỏi năng lượng hạt nhân; Israel
dừng kế hoạch xây dựng nhà máy điện hạt nhân đầu tiên; Nhật Bản
xét lại kế hoạch xây dựng 14 nhà máy điện hạt nhân và đề xuất
đóng cửa một số nhà máy;
Trung Quốc ngưng cấp phép xây dựng mới các nhà máy điện hạt nhân... Ở Italy,
sau khi 2 nhà máy điện hạt nhân cuối cùng phải dừng hoạt động vào tháng 7/1990,
chính phủ của thủ tướng Silvio Berlusconi lại thông qua luật cho phép xây dựng
các nhà máy điện hạt nhân mới vào tháng 7/2009, nhưng rồi
thảm họa Fukushima đã buộc chính phủ Berlusconi phải tuyên bố tạm dừng triển
khai kế hoạch điện hạt nhân một năm
và tổ chức trưng cầu ý kiến toàn dân vào ngày 12/6/2011, với kết quả áp đảo là
gần 96% người tham gia bỏ phiếu phản đối điện hạt nhân.
Thay vì cũng xem xét lại kế hoạch điện hạt nhân một cách thận trọng như
các nước khác, chưa đầy một tuần kể từ khi thảm họa bắt đầu, trong lúc các
chuyên gia Nhật Bản còn đang lúng túng, chưa tìm ra lối thoát, thì người ta đã
tuyên bố ngay rằng Việt Nam vẫn sẽ tiến hành xây dựng các nhà máy điện hạt nhân
Ninh Thuận như dự kiến,
và khẳng định nhà máy điện hạt nhân Ninh Thuận sẽ an toàn, thậm chí
là an toàn nhất thế giới.
Chỉ riêng thể hiện bất chấp ấy cũng cho thấy nguy cơ sự cố hạt nhân ở Việt Nam
lớn đến chừng nào.
Khi để cho nạn rải đinh và ăn cắp nắp cống hoành hành giữa thủ đô Hà
Nội và Thành phố Hồ Chí Minh thì có thể đảm bảo an toàn điện hạt nhân được hay
không? Khi ý thức trách nhiệm không vượt quá nhiệm kỳ thì có thể quyết định
những vấn đề hệ trọng có hậu quả lâu dài cho đất nước hay không?
Do hạn chế về trình độ và kinh nghiệm, do tập quán tùy tiện và thói
quen làm ẩu, do hạn chế của bộ máy lãnh đạo và thiếu minh bạch thông tin, nguy
cơ hiểm họa điện hạt nhân ở Việt Nam còn cao hơn gấp bội so với ở Nga và Nhật
Bản. Chỉ cần một trong 5 đặc tính dốt, chủ quan, ẩu, liều lĩnh và vô trách
nhiệm cũng đã có thể gây ra thảm họa hạt nhân, huống chi là hội đủ cả 5.
Mấy điều đọng lại
Nguy cơ tai họa tồn tại vĩnh viễn cùng các nhà máy điện hạt nhân.
Công nghệ hạt nhân không ngừng tiến bộ, nhưng không bao giờ đạt được
trạng thái hoàn hảo và tuyệt đối an toàn. “Đơn giản” và độc lập như hệ điều
hành Windows mà Microsoft còn phải vá lỗi quanh năm, huống chi là công nghệ
phức tạp và mang tính tổng hợp như công nghệ hạt nhân.
An toàn điện hạt nhân phụ thuộc vào cả những yếu tố ngoài công nghệ.
Thiên tai hay xảy ra ngoài khả năng dự đoán và vượt qua khả năng tưởng tượng. Khi
thiên nhiên nổi giận thì mọi công nghệ đều bất lực và mọi kháng cự của con
người đều bị đè bẹp. Không một cường quốc nào nằm ngoài qui luật ấy. Thêm vào
đó, sự tồn tại của các nhà máy điện hạt nhân khiến xã hội trở nên dễ bị đe dọa
và dễ bị tổn thương hơn trước nạn khủng bố.
Dù tự động hóa đến đâu đi nữa thì con người vẫn là một yếu tố quyết
định đối với quá trình xây dựng và vận hành nhà máy điện hạt nhân. Dù là lãnh
đạo cấp cao hay quản lý trực tiếp, dù là chuyên gia hay công nhân kỹ thuật, con
người không bao giờ hoàn toàn thoát khỏi những hạn chế tự nhiên của mình. Con
người hay sơ xuất, mà chỉ cần một sơ xuất nhỏ trong kỹ thuật hạt nhân cũng có
thể dẫn đến hậu quả khủng khiếp. Chính sai lầm của con người đã dẫn đến thảm
họa hạt nhân Chernobyl và Fukushima. Không tồn tại công nghệ nào có thể loại bỏ triệt để lỗi của con người.
Điều này đã đúng với Nga, với Nhật, thì lại càng đúng với Việt Nam.
Ngày càng có nhiều người nhận thức được rằng: Dù công nghệ hạt nhân có
được mức độ an toàn tối đa thì vẫn sót lại một không gian bao la của hiểm họa
hạt nhân (rest risk), hoàn toàn nằm ngoài tầm với của công nghệ.
Có thể tai nạn hạt nhân ít hơn so với một số loại tai nạn khác, nhưng
khi xảy ra thì rất dễ trở thành thảm họa, vượt khỏi khả năng khống chế và khắc
phục của con người, khiến lợi ích của nhà máy điện hạt nhân biến thành số âm
khổng lồ, và mọi sự trở nên vô nghĩa.
Không thể áp dụng lối lập luận xác suất–thống kê để biện hộ cho an toàn
hạt nhân. Có thể về lý thuyết thì thảm họa lớn (hơn so với Chernobyl 1986 và
Fukushima 2011) chỉ xảy ra một lần trong trăm năm. Nhưng thực tế thì không phải
đợi lâu như vậy. Cái lần được cho là duy nhất ấy có thể xảy ra ngay trong nay
mai, và hậu quả của nó cũng đủ cho trăm năm sau...
Tai họa hạt nhân không biết tuân theo kỷ luật, không biết lùi trước
“quyết tâm chính trị”. Nó sẽ xảy ra do tác động khôn lường của thiên nhiên và
do sự kích hoạt của con người. Tiếc rằng, khi nó ập đến lại không chừa một ai,
hãm hại cả những người vô tội, thậm chí họ còn phải chịu hậu quả nặng nề hơn cả
những người đã được hưởng lợi trong phi vụ điện hạt nhân.
Có thể chấp nhận hay không chấp nhận điện hạt nhân, nhưng quyết định ấy
phải dựa vào những kiến thức khoa học chính xác và khách quan, trên cơ sở cân
nhắc lợi–hại một cách thận trọng, với ý thức tỉnh táo về nguy cơ không thể
tránh khỏi của tai nạn hạt nhân. Không thể ru ngủ cộng đồng bằng những lời hứa
hão huyền. Không thể vì quyền lợi trước mắt của một số người mà gây hại lâu dài
cho lợi ích của muôn dân.
Đất nước này là của toàn dân, trái đất này là của toàn nhân loại, của
thế hệ hôm nay và cả những thế hệ mai sau. Những chính sách ảnh hưởng đến hàng
triệu sinh mạng phải được cân nhắc thận trọng và quyết định bởi hàng triệu cái
đầu. Không thể áp đặt sở thích của mình, bất chấp quyền lựa chọn lối sống của
hàng triệu người khác!
Hà Nội, 14/6/2011
Ghi chú: Tất cả các tài liệu được trích dẫn trong bài
này đều được kết dẫn đến các địa chỉ lưu trữ tài liệu đó trên internet. Vì vậy,
tốt nhất là đọc phiên bản điện tử nguyên vẹn của bài này để có thể nhanh chóng
kết nối với các tài liệu gốc. Nếu khi nhấn chuột mà không thấy xuât hiện tài
liệu tương ứng thì có thể đường kết nối đang bị trục trặc, hoặc chủ nhân trang
web đã xóa tài liệu liên quan sau ngày 14/6/2011.