Luật an ninh mạng – Cán cân... cong lý
Hoàng Xuân Phú
Vâng, không phải công lý, mà quả là cong
lý. Bởi ở xứ luật pháp đóng vai trò tượng trưng, nặng về chức năng trang
trí, thì cán cân hay cong theo cái lý của đấng cầm cân. Đặc biệt, trong trường
hợp của Luật an ninh mạng
Việt Nam, thì chẳng phải đợi đến lúc kẻ cầm cân bẻ cán, mà nó đã bị cong từ khi
chế tác. Để đẻ ra nó, đấng sinh thành đã vận dụng cả phép thần thông... lươn lẹo,
nhằm thôi miên hơn mấy trăm vị được phép tham gia bấm nút, đồng thời ru ngủ cả bao
triệu tâm hồn cả tin.
Để
làm rõ một số nét của cái công nghệ thôi miên - ru ngủ đã được vận dụng, bài viết
này trình bày mấy nội dung sau đây:
-
Phần I bàn về ba khái niệm “an
toàn mạng”,
“an ninh mạng”
và “cybersecurity”.
-
Phần II bình luận về sự cần thiết ban hành Luật
an ninh mạng.
-
Phần III khảo sát mấy trường hợp được cho là
Luật an ninh mạng điển hình.
-
Phần IV phân tích cái được coi là Luật an
minh mạng của Trung Quốc.
-
Phần V tìm hiểu chân tướng của thông tin “138
quốc gia đã ban hành Luật an ninh mạng”.
-
Phần VI là mấy lời nhắn nhủ.
Cuối cùng là phụ lục về mấy luật liên
quan của Nhật Bản, Cộng hòa Séc, Hàn Quốc, Mỹ và Đức.
Bài này chỉ khảo sát cái “cong lý”
đã được dùng để mê hoặc mọi người về tính bức thiết của Luật an ninh mạng. Còn
nguy cơ “cong lý” trong quá trình thực thi Luật an ninh mạng sẽ được xem
xét trong bài “Càng an ninh mạng dân càng bất an”.
I. An toàn mạng - An ninh mạng
- Cybersecurity
Trước hết cần phải làm rõ, ba khái niệm
đó có nghĩa là gì?
Theo Từ điển tiếng Việt của Viện Ngôn ngữ
học do Hoàng Phê chủ biên, “an toàn” là tính từ, hoặc động từ, hay động
ngữ. Khi là tính từ, “an toàn” có nghĩa là “yên ổn hẳn, tránh được tai
nạn, tránh được thiệt hại”. Khi là động ngữ, “an toàn” có nghĩa là “làm
cho an toàn, bảo đảm sự an toàn”. Vì vậy, “an toàn mạng” có nghĩa là
“làm cho mạng an toàn”, hay “bảo đảm sự an toàn của mạng”. “An
toàn thông tin mạng” cũng có ý nghĩa tương tự như “an toàn mạng”, vì
thông tin mạng an toàn khi và chỉ khi mạng an toàn. Do đó, “Luật an toàn
mạng” hay “Luật an toàn thông tin mạng” là luật
về biện pháp bảo đảm an toàn mạng hay an toàn thông tin mạng.
Cũng theo Từ điển tiếng Việt của Viện
Ngôn ngữ, “an ninh” là tính từ, hoặc danh từ, có nghĩa là “yên ổn về
mặt chính trị, về trật tự xã hội”.
Theo giải thích từ ngữ tại Điều 3 Luật an toàn thông tin mạng
của Việt Nam, “mạng là môi trường trong đó thông tin được cung cấp, truyền
đưa, thu thập, xử lý, lưu trữ và trao đổi thông qua mạng viễn thông và mạng máy
tính”.
Như vậy, khái niệm “mạng” chỉ thể
hiện môi trường vật chất kỹ thuật thuần túy, không mang đặc tính chính trị, xã
hội, nên nó không thể “yên ổn về mặt chính trị, về trật tự xã hội”. Do
đó, “an ninh mạng” không thể là “an ninh của mạng”, hay “an
ninh đối với mạng”, mà là “an ninh trên mạng”, tức vấn đề an ninh diễn
ra trên môi trường mạng. Và “Luật an ninh mạng” là luật bảo
đảm an ninh chính trị, xã hội, nhưng chỉ giới hạn trong khuôn khổ những
gì diễn ra trên không gian mạng.
Trong tiếng Anh, động từ “secure”
có nghĩa “bảo vệ”, “bảo đảm”... Nó có nguồn gốc từ tiếng La-tinh “securus”,
có nghĩa là “không phải lo lắng”. “Secure” là bảo vệ để không phải lo lắng.
Danh từ tương ứng “security” có mấy nghĩa khác nhau. Một nghĩa là “sự
bảo đảm”, hay “sự an toàn”. Một nghĩa khác là “biện pháp an toàn”,
tức “biện pháp bảo đảm sự an toàn”. Trong trường hợp đặc biệt, nếu đó là
an toàn về mặt chính trị, trật tự xã hội, thì “security”
có nghĩa là “an ninh”, hay “biện pháp an ninh”, tức là “biện
pháp bảo vệ an ninh”.
“Cybersecurity”
(còn được viết là “cyber security”) có nghĩa là “an toàn mạng”,
hoặc “biện pháp an toàn mạng”, hay “biện pháp bảo đảm an toàn mạng”.
Vì với tư cách môi trường môi trường vật chất kỹ thuật thuần túy, mạng chỉ có
thể an toàn, yên ổn về mặt vật chất kỹ thuật, chứ không thể an toàn, yên ổn về mặt
chính trị, trật tự xã hội, nên không thể dịch “cybersecurity” thành “an
ninh mạng”, hoặc “biện pháp an ninh mạng”.
Vì lý do trên, “Cybersecurity Law”
(tức “Cyber Security Law”) có nghĩa là tiếng Việt là “Luật an toàn
mạng”, hay “Luật biện pháp an toàn mạng”. Không thể dịch
nó thành “Luật an ninh mạng”, hay “Luật biện pháp an ninh mạng”.
Thực ra, đối với Cybersecurity Law, thì Cybersecurity thường có nghĩa là biện pháp bảo đảm an
toàn hệ thống máy tính, mạng máy tính, phần mềm và dữ liệu, khỏi bị đánh cắp
và phá hoại bởi các hoạt động tấn công và xâm nhập trái phép.
Cho nên, tên “Luật biện pháp an toàn mạng” sát nghĩa hơn. Tuy nhiên, tên
“Luật an toàn mạng” không khiến người đọc hiểu sai tinh thần, vì muốn bảo
đảm an toàn thì đương nhiên phải đề ra các biện pháp cần thiết và thích hợp.
II. Về sự cần thiết ban hành
Luật an ninh mạng
Để thuyết phục dư luận, tuyên truyền viên thường xoáy vào
“nguy cơ an toàn thông
tin mạng đang gia tăng nhanh chóng”. Chẳng hạn, Thiếu tướng GS TS Nguyễn Minh Đức, Viện trưởng
Viện Khoa học cảnh sát - Học viện Cảnh sát nhân dân, đã liệt kê:
“Trong năm 2017, các hệ
thống thông tin tại Việt Nam đã phải hứng chịu khoảng 15.000 cuộc tấn công mạng,
gồm khoảng 3.000 cuộc tấn công lừa đảo (Phishing), 6.500 cuộc tấn công cài phần
mềm độc hại (Malware) và 4.500 cuộc tấn công thay đổi giao diện (Deface)… Thiệt
hại do virus máy tính gây ra đối với người dùng Việt Nam đã lên tới 12.300 tỷ đồng
(540 triệu USD), vượt xa mốc 10.400 tỷ đồng của năm 2016 và đã đạt kỷ lục trong
nhiều năm trở lại đây.”
Nghe như vậy, hẳn nhiều người muốn giơ cả hai tay, nhiệt
liệt ủng hộ việc ban hành Luật an ninh mạng. Nhưng họ nhầm lẫn ở chỗ, đó không
phải là vấn để an ninh trên mạng, mà là vấn đề an toàn của mạng. Và để bảo
vệ an toàn của mạng, Quốc hội khóa XIII đã ban hành Luật an toàn thông tin mạng
(số 86/2015/QH13) vào năm 2015,
trong đó Điều 3 Khoản 1 viết như sau:
“An
toàn thông tin mạng là sự bảo vệ thông tin, hệ thống thông tin trên mạng
tránh bị truy nhập, sử dụng, tiết lộ, gián đoạn, sửa đổi hoặc phá hoại trái
phép nhằm bảo đảm tính nguyên vẹn, tính bảo mật và tính khả dụng của thông
tin.”
Lập luận về sự cần thiết ban hành Luật an ninh mạng, Tờ trình số 366/TTr-CP về
Dự án Luật an ninh mạng của Chính phủ gửi Quốc hội (ngày 31 tháng 8 năm 2017)
đưa ra năm lý do, trong đó lý do đầu tiên là:
“1. Đáp ứng yêu cầu của
công tác an ninh mạng trong bảo vệ an ninh quốc gia, bảo đảm trật tự an toàn xã
hội.”
Cụ thể là mười yêu cầu sau:
“Thứ nhất, phòng ngừa, đấu
tranh, làm thất bại hoạt động sử dụng không gian mạng xâm phạm an ninh quốc
gia, chống nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, tuyên truyền phá hoại
tư tưởng, phá hoại nội bộ, phá hoại khối đại đoàn kết toàn dân tộc, kích động
biểu tình, phá rối an ninh trên không gian mạng của các thế lực thù địch, phản
động.”
“Thứ hai, phòng ngừa, ngăn
chặn, ứng phó, khắc phục hậu quả của các hoạt động tấn công mạng, khủng bố mạng,
phòng, chống chiến tranh mạng.”
“Thứ ba, phòng ngừa, ngăn chặn,
loại bỏ tác nhân tiến hành hoạt động gián điệp mạng, chiếm đoạt thông tin, tài
liệu bí mật nhà nước trên không gian mạng, tình trạng đăng tải thông tin, tài
liệu bí mật nhà nước trên không gian mạng.”
“Thứ tư, bảo vệ hệ thống
thông tin quan trọng về an ninh quốc gia theo cấp độ và áp dụng các biện pháp cần
thiết, tương xứng.”
“Thứ năm, quy định và thống
nhất thực hiện phòng ngừa, ứng phó nguy cơ, sự cố an ninh mạng.”
“Thứ sáu, quy định về tiêu
chuẩn, quy chuẩn kỹ thuật an ninh mạng.”
“Thứ bảy, triển khai công
tác bảo vệ an ninh mạng trong hệ thống cơ quan nhà nước từ Trung ương đến địa
phương.”
“Thứ tám, đặt nền móng và
triển khai công tác nghiên cứu, dự báo, phát triển các giải pháp bảo đảm an
ninh mạng.”
“Thứ chín, thường xuyên kiểm
tra, đánh giá thực trạng an ninh mạng đối với hệ thống thông tin của các bộ,
ngành, địa phương.”
“Thứ mười, xây dựng cơ chế
chia sẻ thông tin, thông báo tình hình an ninh mạng để nâng cao nhận thức về an
ninh mạng, chủ động phòng ngừa các nguy cơ an ninh mạng có thể xảy ra.”
Trong mười yêu cầu trên, chỉ có yêu cầu
thứ nhất là thuộc về an ninh trên mạng, còn lại đều là yêu cầu đảm bảo an toàn
của mạng. Nhiều nội dung thuộc về Luật an toàn thông tin mạng được huy động
vào Luật an ninh mạng như vậy, phải chăng nhằm che đậy ý đồ đích thực? Và ý đồ
đó được bộc lộ rõ ràng ở lý do thứ năm mà Tờ trình về Dự án Luật an ninh mạng
đưa ra:
Theo quy định tại khoản 2 Điều
14 của Hiến pháp năm 2013 thì Quyền con người, quyền
công dân chỉ có thể bị hạn chế theo quy định của luật trong trường hợp cần thiết vì
lý do quốc phòng, an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội, đạo đức xã hội, sức
khỏe của cộng đồng. Dự kiến Luật an
ninh mạng sẽ quy định các biện pháp nghiệp vụ an ninh mạng, trong đó có một số biện pháp
có khả năng ảnh hưởng tới quyền con
người, quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân như giám sát an ninh mạng, hạn chế thông tin mạng…
Do vậy, việc ban hành Luật an ninh mạng để bảo đảm quyền con người, quyền công
dân theo quy định của Hiến pháp là cần thiết.”
Vâng, vì Điều 14 Khoản 2 của Hiến pháp
năm 2013 quy định quyền con người, quyền công dân chỉ có thể bị hạn chế theo
quy định của luật, nên họ phải ban hành Luật an ninh mạng để có thể hạn
chế một số quyền con người, quyền công dân. Mục đích sâu xa chỉ đơn giản
như vậy.
Tất nhiên, để phục vụ nhu cầu bảo vệ an
ninh chính trị và trật tự xã hội trong tình hình mới, có thể phải sửa đổi và bổ
sung một số quy định của Luật an toàn thông tin mạng và Bộ luật hình sự, đó là
một việc hết sức thông thường trong quá trình lập pháp và hoàn thiện pháp luật.
Song, nếu tiến hành sửa đổi và bổ sung Luật an toàn thông tin mạng và Bộ luật
hình sự, thì Luật an ninh mạng chỉ còn lại lơ thơ mấy điều đáng kể, khiến nó trở
nên ngắn tủn, và điều khoản trao cho công an quyền hạn chế quyền con người và
quyền công dân trở nên quá lộ liễu. Vì vậy, đành huy động cả những nội dung thuộc
Luật an toàn thông tin mạng để làm hoa lá cành xum xuê, có tác dụng ngụy trang,
hạn chế tai tiếng cho Luật an ninh mạng.
Có điều, cách làm luật tùy tiện đó khiến hai luật trở nên
mâu thuẫn và chống lại nhau. Ví dụ, Điều 18 Khoản 1 của Luật an toàn thông tin
mạng quy định:
“Chủ
thể thông tin cá nhân có quyền yêu cầu tổ chức, cá nhân xử lý thông tin cá nhân
cập nhật, sửa đổi, hủy bỏ thông tin cá nhân của mình mà tổ chức, cá nhân đó
đã thu thập, lưu trữ hoặc ngừng cung cấp thông tin cá nhân của mình cho bên thứ
ba.”
Nhưng Luật an ninh mạng quy định ngược lại tại Điều 26
Khoản 2:
“Doanh
nghiệp trong và ngoài nước khi cung cấp dịch vụ
trên mạng viễn thông, mạng Internet và các dịch vụ gia tăng trên không gian
mạng tại Việt Nam có trách nhiệm sau đây:
a)
Xác thực thông tin khi người dùng đăng ký tài khoản số;
bảo mật thông tin, tài khoản của người dùng; cung cấp thông tin người dùng
cho lực lượng chuyên trách bảo vệ an ninh mạng thuộc Bộ Công an khi có yêu cầu
bằng văn bản để phục vụ điều tra, xử lý hành vi vi phạm pháp luật về an
ninh mạng.”
Thử hỏi, khi chủ thể thông tin cá nhân
đã thực hiện “quyền yêu cầu” doanh nghiệp cung cấp dịch vụ trên mạng “hủy
bỏ thông tin cá nhân của mình” mà doanh nghiệp đó “đã thu thập, lưu trữ”
và “ngừng cung cấp thông tin cá nhân của mình cho bên thứ ba” (theo quy
định tại Điều 18 Khoản 1 của Luật an toàn thông tin mạng), thì làm sao doanh
nghiệp có thể “cung cấp thông tin người
dùng cho lực lượng chuyên trách bảo vệ an ninh mạng thuộc Bộ Công an khi có yêu
cầu”
(theo quy định tại Điều 26 Khoản 2 của Luật an ninh mạng)? Vậy thì doanh nghiệp
cung cấp dịch vụ trên mạng phải tuân theo Luật an toàn thông tin mạng của Quốc hội
khóa XIII (dưới sự lãnh đạo của Chủ tịch Nguyễn Sinh Hùng và Phó Chủ tịch Nguyễn
Thị Kim Ngân), hay phải tuân theo Luật an ninh mạng của Quốc hội khóa XIV (dưới
sự lãnh đạo của Chủ tịch Nguyễn Thị Kim Ngân)?
III. Mấy trường hợp được cho
là Luật an ninh mạng điển hình
Lý do thứ sáu mà Tờ
trình về Dự án Luật an ninh mạng của Chính phủ đưa ra
để biện hộ cho sự cần thiết ban hành Luật an ninh mạng là:
“6. Bảo đảm sự phù hợp với
thông lệ quốc tế
Qua nghiên cứu cho thấy, hiện
đã có nhiều quốc gia trên thế giới ban hành các văn bản luật về an ninh mạng,
điển hình như: Nhật (Basic Act on cybersecurity - Đạo luật
cơ bản về An ninh mạng), Trung Quốc (People’s Republic of China Cybersecurity
Law - An ninh mạng của CHND Trung Hoa), Cộng hòa Séc (Cyber Security Law of the
Czech Republic - Luật an ninh mạng của Cộng hòa Séc), Hàn Quốc (National Anti -
Cyberterrorism Act - Dự luật phòng chống khủng bố mạng quốc gia)… Riêng Mỹ,
ngoài việc ban hành các đạo luật chung, Mỹ đã ban hành tới 06 đạo luật liên
quan các vấn đề về an ninh mạng là: Đạo luật Đánh giá Lực lượng An ninh mạng, Đạo
luật Tăng cường An ninh mạng năm 2014, Đạo luật Bảo vệ An ninh mạng Quốc gia
2014, Đạo luật hiện đại hóa An ninh thông tin Liên bang năm 2014, Dự luật Chia
sẻ thông tin An ninh mạng năm 2015, Dự luật Tăng cường Bảo vệ An ninh mạng Quốc
gia năm 2015. Ngày 7/12/2015, Hội đồng và Nghị viện Châu Âu đạt được sự thống
nhất về các biện pháp thúc đẩy an ninh mạng tổng thể trong Liên minh Châu Âu tại
Chỉ thị An ninh thông tin và mạng (Network and Information Security) nhằm tăng
cường các khả năng an ninh mạng của các quốc gia thành viên, tăng cường sự hợp
tác của các quốc gia thành viên trong lĩnh vực an ninh mạng. Việc xây dựng,
ban hành Luật an ninh mạng sẽ bảo đảm công tác an ninh mạng của nước ta có sự
phù hợp nhất định với thông lệ quốc tế và bảo đảm các điều kiện hội nhập quốc tế
về an ninh mạng.”
Để gia tăng hiệu quả thuyết phục, Tờ
trình của Chính phủ viết thêm tên tiếng Anh của một số luật. Nhờ thế, ta có thể
tìm được đúng văn bản luật tương ứng, mà không lo nhầm lẫn (do tên dịch tiếng
Việt gây ra). Thông tin về mấy đạo luật của Mỹ trong Tờ trình thì lộn xộn hơn
và không có tiếng Anh, nhưng tên dịch ra tiếng Việt cũng đủ để định vị các đạo
luật được đề cập.
Một số điểm mấu chốt của Basic Act on
Cybersecurity của Nhật Bản, Cyber Security Law của Cộng hòa Séc, National
Anti-Cyberterrorism Act của Hàn Quốc và mấy đạo luật của Mỹ được trình bày
tương ứng trong Phụ lục 1, Phụ lục 2, Phụ lục 3 và Phụ lục 4. Qua đó có thể thấy,
các văn bản luật ấy đều về an toàn mạng, chứ không phải về an ninh mạng.
Cybersecurity Law of the
People’s Republic of China cũng tương tự như vậy,
và điều này sẽ được trình bày kỹ trong phần IV.
Văn bản mà Tờ trình về Dự án Luật an
ninh mạng viết là “Chỉ
thị An ninh thông tin và mạng (Network and Information Security)”
của Liên minh Châu Âu chính là EU Network and
Information Security Directive (NIS Directive).
Nguyên văn tên tiếng Anh của nó là:
“Directive (EU) 2016/1148 of the European
Parliament and of the Council
of 6 July 2016
concerning measures for a
high common level of security of network and information systems
across the Union”
Để có thể dịch chính xác thì phải căn cứ vào định nghĩa
sau đây tại Điều 4 Khoản 2 của Chỉ thị:
“‘Security
of network and information systems’ means the ability of network and
information systems to resist, at a given level of confidence, any action that
compromises the availability, authenticity, integrity or confidentiality of
stored or transmitted or processed data or the related services offered by, or
accessible via, those network and information systems.”
Tức là:
“‘Security
of network and information systems’ có nghĩa là khả năng kháng cự của các hệ
thống mạng và thông tin, với mức độ tin cậy được xác định, chống lại mọi hành
vi gây tổn hại cho tính khả dụng, tính xác thực,
tính đáng tin hoặc tính bảo mật của dữ liệu được lưu trữ hay truyền tải hay xử
lý, hoặc của các dịch vụ liên quan được cung cấp hay có thể tiếp cận qua các hệ
thống mạng và hệ thống thông tin ấy.”
Như
vậy, cần dịch tên của Chỉ thị EU 2016/1148 thành
“Chỉ thị (EU) 2016/1148 của
Nghị viện và Hội đồng Liên minh Châu Âu
ngày 6 tháng 7 năm 2016
về các biện pháp nhằm đạt được
mức độ an toàn cao của hệ thống mạng và thông tin
trong toàn Liên minh”
Nói gọn hơn, đó là Chỉ thị về các biện
pháp bảo vệ an toàn hệ thống mạng và thông tin. Không thể dịch thành “Chỉ
thị An ninh thông tin và mạng”, như trong Tờ
trình của Chính phủ.
Tóm lại, tất cả “các văn bản luật về an ninh mạng... điển hình” được trích dẫn
trong Tờ trình về Dự án Luật an ninh mạng của Chính phủ gửi Quốc hội đều không
phải là luật về an ninh mạng, mà về an toàn mạng.
Tuy không được trích dẫn trong Tờ trình
về Dự án Luật an ninh mạng, nhưng cái gọi là Luật an ninh mạng của Đức hay được
đề cập trên đài báo Việt Nam, ví dụ như Nhân dân
(31/05/2018), ANTV
(23/06/2018), An ninh Thủ đô
(18/06/2018), Công an Thành phố Hồ Chí
Minh (04/07/2018),
Quân đội nhân dân
(23/06/2018)... Nội dung đăng tải thường
được xào xáo từ hai nguồn thông tin sau.
Nguồn thứ nhất là bài “Đức thông qua
Luật an ninh mạng”, được đăng trên VTV vào ngày
18/12/2014. Bài ấy viết về IT-Sicherheitsgesetz, nhưng
nó thuộc loại Luật an toàn mạng, chứ hoàn toàn không phải là Luật an ninh mạng
(xem Phụ lục 5).
Nguồn
thứ hai là bài “Một số điều cần biết về luật an ninh mạng ở CHLB Đức”,
được đăng đồng thời vào lúc 15 giờ 11 phút ngày 24/5/2018 (tức là 19 ngày trước
khi Quốc hội biểu quyết
thông qua Luật an ninh mạng vào ngày 12/6/2018)
trên hệ thống trang mạng đặc nhiệm:
http://quochoi.org/mot-so-dieu-can-biet-ve-luat-an-ninh-mang-o-chlb-duc.html
http://nguyenphutrong.org/mot-so-dieu-can-biet-ve-luat-an-ninh-mang-o-chlb-duc.html
http://trandaiquang.org/mot-so-dieu-can-biet-ve-luat-an-ninh-mang-o-chlb-duc.html
http://nguyenxuanphuc.org/mot-so-dieu-can-biet-ve-luat-an-ninh-mang-o-chlb-duc.html
http://nguyenthikimngan.org/mot-so-dieu-can-biet-ve-luat-an-ninh-mang-o-chlb-duc.html
http://tranquocvuong.org/mot-so-dieu-can-biet-ve-luat-an-ninh-mang-o-chlb-duc.html
http://phamminhchinh.org/mot-so-dieu-can-biet-ve-luat-an-ninh-mang-o-chlb-duc.html
http://hoangtrunghai.org/mot-so-dieu-can-biet-ve-luat-an-ninh-mang-o-chlb-duc.html
http://dinhthehuynh.org/mot-so-dieu-can-biet-ve-luat-an-ninh-mang-o-chlb-duc.html
http://tolam.org/mot-so-dieu-can-biet-ve-luat-an-ninh-mang-o-chlb-duc.html
http://nguyenthiennhan.org/mot-so-dieu-can-biet-ve-luat-an-ninh-mang-o-chlb-duc.html
http://vovanthuong.org/mot-so-dieu-can-biet-ve-luat-an-ninh-mang-o-chlb-duc.html
http://nguyentandung.org/mot-so-dieu-can-biet-ve-luat-an-ninh-mang-o-chlb-duc.html
...
Có điều, cái mà bài “Một số điều cần biết về
luật an ninh mạng ở CHLB Đức” gọi là “Luật an
ninh mạng ở CHLB Đức” không phải là IT-Sicherheitsgesetz, mà là NetzDG - Netzwerkdurchsetzungsgesetz,
tức Luật chấp pháp trên mạng. Và như đã chỉ ra trong bài “Luật an ninh mạng -
Tượng đài… cô đơn”, NetzDG cũng không phải là
Luật an ninh mạng.
Ấy vậy mà Tờ trình của Chính phủ lại viết:
“Qua nghiên cứu cho thấy, hiện đã có nhiều quốc gia trên thế giới
ban hành các văn bản luật về an ninh mạng”. Và nhiều đến mức, “việc
xây dựng, ban hành Luật an ninh mạng sẽ bảo đảm công tác an ninh mạng của nước
ta có sự phù hợp nhất định với thông lệ quốc tế”.
Trớ trêu thay, trong số “các văn bản
luật về an ninh mạng... điển hình” được chọn lọc để đưa vào Tờ trình, phải
tận thu cả ba dự luật (tức là dự thảo luật chưa được thông qua). Đó là Dự
luật phòng chống khủng bố mạng quốc gia của Hàn Quốc, Dự luật Chia sẻ thông tin
An ninh mạng năm 2015 và Dự luật Tăng cường Bảo vệ An ninh mạng Quốc gia năm
2015 của Mỹ. Điều đó cho thấy hoàn cảnh tìm kiếm dẫn chứng của họ bí bách đến mức
nào.
Thực ra, hai cái được trích dẫn là dự luật
của Mỹ đã được thông qua thành đạo luật từ năm 2015. Nhưng hai năm sau, khi viết
Tờ trình vào năm 2017, thì họ tưởng chúng vẫn còn là dự luật. Hơn nữa, hai thứ ấy
không phải là đạo luật độc lập, mà chỉ là tên quy ước được dùng để trích dẫn
hai trong số bốn tiêu đề thuộc Cybersecurity Act of
2015 - Đạo luật an toàn mạng
năm 2015. Và bản thân cái này cũng chỉ là tên
quy ước được dùng để trích dẫn Phân đoạn N của Công luật số 114-113.
Vì Công luật số 114-113 còn có nhiều nội dung khác không liên quan, nên khi bàn
đến vấn đề an toàn mạng, có thể chỉ trích dẫn phần tương ứng bằng tên gọi Đạo
luật an toàn mạng năm 2015. Thế nhưng, thay vì trích dẫn mỗi Đạo luật an toàn
mạng năm 2015, họ lại trích dẫn riêng rẽ hai thành phần nhỏ của nó, nhờ thế mà
dôi thêm được một đơn vị luật. Nếu biết rằng Đạo luật an toàn mạng năm 2015 còn
có hai phần nữa cũng có tên trích dẫn riêng là đạo luật, thì có lẽ họ sẽ kể riêng
rẽ cả bốn phần cho thêm phần rôm rả (xem Phụ lục 4).
Có thể ai đó sẽ ngụy biện, rằng dịch “Cybersecurity
Law” thành “Luật an ninh mạng” cũng không sai. Vì theo tập quán ngôn
ngữ hiện đại của chính trường, thì “an
ninh” hay “an
toàn” cũng như nhau, chỉ
chưa kịp cập nhật trong Từ điển tiếng Việt của Viện Ngôn ngữ mà thôi. Và để
minh họa, thì viện dẫn kiểu đại ngôn “an
ninh lương thực”. Nếu
vậy thì tại sao “hệ thống chính trị”
lại không gọi “Luật an toàn thông tin mạng”
(số 86/2015/QH13)
là “Luật an ninh thông tin mạng” cho nhất quán?
IV. Luật Trung Quốc
Trong phần III, ta vẫn chưa xem xét cái được
Tờ trình về Dự án Luật
an ninh mạng của Chính phủ gọi là “People’s
Republic of China Cybersecurity Law – Luật an ninh mạng của CHND Trung Hoa”,
mà giữ lại để xét riêng trong phần này. Sở dĩ nó được ưu tiên như vậy là vì nhiều
người cho rằng Luật an ninh mạng Việt Nam được sao chép từ Luật an ninh mạng
Trung Quốc, và nhiều điều tệ hại từ đó mà ra. Vốn sẵn định kiến, nên nghe vậy thì
người người đều tin. Chẳng mấy ai đặt câu hỏi, liệu kết luận ấy có chính xác hay
không. Nhưng ta sẽ thấy, câu hỏi đó đáng được xem xét và trả lời một cách
nghiêm túc.
Có ba lý do khiến ta phải dịch
Cybersecurity Law of the
People’s Republic of China (được thông qua ngày 7/11/2016
và có hiệu lực thực hiện từ 1/6/2017) thành Luật an
toàn mạng của Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa.
Một là về thuật ngữ, Điều
76 Khoản 2 quy ước như sau:
“Cybersecurity
có nghĩa là tiến hành các biện pháp cần thiết để ngăn ngừa tấn công, xâm nhập,
gây nhiễu, phá hoại và sử dụng phi pháp mạng, cũng như ngăn chặn các rủi ro
ngoài ý muốn; để mạng hoạt động ổn định và đáng tin cậy, đồng thời bảo đảm cho
dung lượng thông tin mạng trọn vẹn, bí mật và khả dụng.”
Như vậy, “cybersecurity” trong Luật
này có nghĩa là “biện pháp an toàn mạng”, hay “biện pháp bảo đảm an
toàn mạng”, chứ không phải là “an ninh mạng”.
Hai là về mục đích của luật, Điều
2 viết như sau:
“Luật này quy định việc xây dựng, vận
hành, duy trì và sử dụng mạng, cũng như việc giám sát và quản lý an toàn mạng
trên lãnh thổ đất liền của Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa.”
Ba là về nội dung, Luật
này chủ yếu đề cập đến vấn đề an toàn mạng, với ngoại lệ dành cho mấy loại hành
vi sau đây:
“Điều 46: Mọi
cá nhân và tổ chức phải chịu trách nhiệm về việc sử dụng trang mạng và không được
dựng ra trang mạng hay nhóm liên lạc nhằm lừa gạt, phổ biến phương pháp phạm
tội, tạo ra hay bán những thứ bị cấm hay bị hạn chế, hoặc các hành động phạm
pháp khác, và trang mạng không được sử dụng để công bố thông tin liên quan
tới lừa gạt, tạo ra hay bán những thứ bị cấm hay bị hạn chế, hoặc các hành động
phạm pháp khác.”
Và
hình phạt cho loại hành vi vi phạm trật tự xã hội
này được quy định tại Điều 67. Có lẽ đó là mấy loại tội phạm nguy hiểm đặc
trưng trên mạng, nhưng còn thiếu quy định pháp luật để xử lý chúng, nên mới nảy
sinh ngoại lệ ấy.
Điều 12 quy định nghĩa vụ của
Nhà nước đối với công dân và nghĩa vụ của công dân trong việc chấp hành Hiến
pháp và pháp luật, trong đó đoạn 2 được viết như sau:
“Mọi người và tổ chức
sử dụng mạng phải tuân theo Hiến pháp và pháp luật, tôn trọng trật tự công cộng
và đạo đức xã hội; không được gây phương hại cho an toàn mạng, không được sử dụng
internet để tổ chức các hoạt động gây tổn hại cho an ninh quốc gia, danh dự và
quyền lợi dân tộc, kích động phá hoại chủ quyền dân tộc, lật đổ hệ thống xã hội
chủ nghĩa, kích động ly khai, phá hoại sự thống nhất dân tộc, ủng hộ khủng bố
hoặc chủ nghĩa cực đoan, kích động thù hằn và chia rẽ chủng tộc, phổ biến thông
tin bạo lực, tục tĩu, khiêu dâm, tạo ra hay phổ biến thông tin sai trái nhằm
phá vỡ trật tự kinh tế hay xã hội, hoặc thông tin xâm phạm uy tín, cuộc sống
riêng tư, sở hữu trí tuệ, quyền và lợi ích hợp pháp của người khác, và các hành
vi tương tự.”
Đọc
xong đoạn vừa rồi dễ lầm tưởng, rằng ngăn chặn và trừng phạt các hành vi nêu
trên cũng là mục đích của Luật an toàn mạng Trung Quốc. Nhưng hoàn toàn không
phải như vậy. Các hành vi vi phạm ấy chỉ được nương nhờ chốc lát trong khuôn
khổ Chương I về Quy định chung, để tập hợp các nguyên tắc cần tôn trọng khi sử
dụng mạng internet trở nên đầy đủ. Rồi lại bị khai trừ ngay khỏi vòng chiến của
Luật tại Chương VI về Trách nhiệm pháp lý:
“Điều 70: Hành
vi công bố hay chuyển tiếp thông tin bị cấm bởi đoạn 2 Điều 12 của Luật này,
hay các luật khác, hay bị cấm bởi các quy định của nhà nước sẽ bị trừng phạt
theo quy định của luật hay quy định nhà nước tương ứng.”
Tức là
các hành vi vi phạm an ninh chính trị và trật tự xã hội được đề cập trong đoạn
2 Điều 12 không phải là đối tượng xử lý của Luật này, trong khi hình phạt đối với
các hành vi thuộc đối tượng xử lý của Luật này được quy định rất cụ thể trong 11
điều của Chương VI (từ Điều 59 đến Điều 69). Riêng điều đó cũng đủ để chứng tỏ,
KHÔNG THỂ dịch Cybersecurity Law of the
People’s Republic of China
thành Luật an ninh mạng.
Ngoài phạt tù và phạt tiền, Luật an toàn
mạng Trung Quốc còn quy định hình phạt đóng trang mạng, đóng nhóm liên lạc trên
mạng... Nhưng do Điều 70 đã khai trừ loại thông tin bị cấm bởi bị cấm bởi đoạn
2 Điều 12 (ví dụ như thông tin gây tổn hại cho an ninh quốc gia, kích động
phá hoại chủ quyền dân tộc, lật đổ hệ thống xã hội chủ nghĩa; thông tin sai
trái nhằm phá vỡ trật tự kinh tế hay xã hội; thông tin xâm phạm uy tín, cuộc sống
riêng tư, sở hữu trí tuệ, quyền và lợi ích hợp pháp của người khác) ra khỏi vòng chiến của
Luật an toàn mạng Trung Quốc, nên không thể áp dụng Luật này để đóng trang
mạng và đóng nhóm liên lạc trên mạng đăng nội dung như vậy.
Về năng lực sáng tạo hình phạt, các nhà
làm luật Việt Nam đã tỏ ra còn cứng rắn hơn đồng nghiệp Trung Quốc. Luật an
ninh mạng Việt Nam triển khai thêm loại hình phạt đình chỉ sử dụng mạng viễn
thông, mạng internet và phong tỏa, hạn chế hoạt động của hệ thống thông
tin, khiến không chỉ người bị kết tội, mà cả những người chung sống hoặc
cùng làm việc cũng bị lao đao. Còn Luật an toàn mạng Trung Quốc thì không có những
hình thức xử phạt ấy.
Quy định gây nhiều tranh luận
và khiến một số nhà đầu tư nước ngoài quan ngại nhất trong Luật
an toàn mạng Trung Quốc là:
“Điều
37: Phải lưu trữ trên đất liền Trung Quốc thông tin cá nhân và các
dữ liệu quan trọng khác được thu thập hoặc sản sinh bởi những người điều khiển hạ
tầng thông tin quan trọng trong lúc hoạt động trên lãnh thổ đất liền của
Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa. Nếu việc chuyển thông tin ra khỏi đất liền Trung
Quốc là thực sự cần thiết cho công việc, thì phải thực hiện các biện pháp do cơ
quan an toàn thông tin và thông tin hóa quốc gia và các cơ quan liên quan của
Hội đồng quốc gia phối hợp ban hành để đánh giá an toàn; nhưng nếu pháp luật và
quy định nhà nước cho phép làm khác thì tuân theo quy định ấy.”
Về phương diện này, Luật an ninh mạng Việt
Nam cũng quy định tại Điều 26 Khoản 3 rằng:
“Doanh
nghiệp trong nước và ngoài nước cung cấp dịch vụ trên mạng viễn thông, mạng
Internet, các dịch vụ gia tăng trên không gian mạng tại Việt Nam có hoạt động
thu thập, khai thác, phân tích, xử lý dữ liệu về thông tin cá nhân, dữ liệu về
mối quan hệ của người sử dụng dịch vụ, dữ liệu do người sử dụng dịch vụ tại Việt
Nam tạo ra phải lưu trữ dữ liệu này tại Việt Nam trong thời gian theo
quy định của Chính phủ.”
Thoáng qua thì thấy na ná giống nhau, vì
cả hai đều quy định phải lưu trữ dữ liệu trên lãnh thổ của nước mình. Song thực
ra, hai quy định ấy rất khác biệt, trái ngược như nước với lửa.
Khác biệt thứ nhất là về
hình thức lưu trữ.
Luật an toàn mạng Trung Quốc
đòi hỏi phải lưu trữ dữ liệu trong máy chủ đặt trên đất liền Trung Quốc.
Nếu vi phạm Điều 37, bằng cách lưu trữ thông tin ở ngoài lãnh thổ Trung Quốc,
hoặc chuyển thông tin cho cá nhân hay tổ chức ở ngoài lãnh thổ Trung Quốc mà
không thực hiện các biện pháp an toàn do phía Trung Quốc quy định, thì sẽ bị xử
phạt theo quy định tại Điều 66.
Luật an ninh mạng Việt Nam
thì chấp nhận lưu trữ dữ liệu trong máy chủ đặt ở ngoài lãnh thổ Việt Nam,
chỉ đòi hỏi “phải dịch chuyển đám
mây điện toán (máy chủ ảo) về Việt Nam để mở trung tâm dữ liệu tại Việt Nam”.
Đại khái là chỉ phải sinh ra một phiên bản copy huyền ảo bồng bềnh trên “đám
mây điện toán”, miễn là lấp ló trên bầu trời nước Việt, để bộ máy an ninh
Việt Nam có thể tự do khai thác dữ liệu.
Để ngụy biện cho đòi hỏi ấy, họ tung ra
thông tin hết sức vu vơ: “Theo Thường vụ Quốc hội,
đến nay, đã có hơn 18 quốc gia thành viên của WTO (trong đó có Hoa Kỳ, Canada,
Úc, Đức, Pháp) quy định bắt buộc phải lưu trữ dữ liệu trong lãnh thổ quốc gia.”
Vu vơ ở chỗ, nếu tồn tại ai đó trong Thường vụ Quốc hội có đủ trình độ cần thiết,
thì người đó cũng không đầu tư thời gian tra cứu để tìm ra 18 quốc gia quy định
bắt buộc phải lưu trữ dữ liệu trong lãnh thổ quốc gia; nhưng họ lại gán thành
tích tìm kiếm ấy cho Thường vụ Quốc hội, để tăng thêm hiệu quả hù dọa muôn người.
Vu vơ ở chỗ, không hề nêu đích danh tên văn bản pháp luật của 18 quốc gia để mọi
người có thể kiểm chứng, bởi nếu kiểm chứng thì sẽ phát hiện ra quá nhiều thông
tin là sai hoặc bịa đặt. Và vu vơ ở chỗ, nếu có quốc gia nào đó quy định phải
lưu trữ dữ liệu trên lãnh thổ nước đó, thì chắc chắn phải quy định như Luật an
toàn mạng Trung Quốc, tức là chỉ được lưu trữ trong máy chủ đặt trên lãnh thổ
nước đó; chứ khó có chuyện được phép lưu trữ ở ngoài lãnh thổ và chỉ phải sinh
ra một phiên bản ảo trong “đám mây điện toán” bay trên nước đó.
Khác biệt thứ hai là về đối
tượng lưu trữ.
Luật an toàn mạng Trung Quốc
đòi hỏi phải lưu trữ “thông tin cá nhân và các dữ liệu quan trọng khác được
thu thập hoặc sản sinh bởi những người điều khiển
hạ tầng thông tin quan trọng”.
Theo quy định tại Điều 31, hạ tầng thông tin quan trọng bao gồm thông
tin trong các lĩnh vực truyền thông công cộng và dịch vụ thông tin, điện lực,
giao thông, cung cấp nước, tài chính, dịch vụ công cộng, chính phủ điện tử... Cần
lưu ý, thông tin cá nhân được đề cập ở đây không mang tính riêng tư, mà là
thông tin nhân sự tham gia công việc do doanh nghiệp nước ngoài triển khai tại
Trung Quốc.
Còn Luật an ninh mạng Việt Nam thì đòi
hỏi phải lưu trữ “dữ liệu về thông tin cá nhân, dữ liệu về mối quan hệ của
người sử dụng dịch vụ, dữ liệu do người sử dụng dịch vụ tại Việt Nam tạo ra”
khi sử dụng “dịch vụ trên mạng viễn thông, mạng internet và các dịch vụ
gia tăng”.
Ví dụ, nếu đầu tư ở Trung Quốc vào các
lĩnh vực với hạ tầng thông tin quan trọng thì Luật an toàn mạng Trung Quốc đòi
hỏi các doanh nghiệp nước ngoài phải lưu trữ tại Trung Quốc các dữ liệu về nhân
sự và các dữ liệu quan trọng khác mà họ thu thập hoặc sản sinh trong quá trình
đầu tư. Nhưng nếu đầu tư ở Việt Nam, thì các doanh nghiệp nước ngoài có thể tự
do lưu trữ dữ liệu ở nước ngoài, phía Việt Nam không quan tâm và cũng không thể
can thiệp, khi các doanh nghiệp ấy không thuộc diện “cung cấp dịch vụ trên mạng
viễn thông, mạng internet và các dịch vụ gia tăng trên không gian mạng tại Việt
Nam”, là đối tượng mà Khoản 3 Điều 26 Luật an ninh mạng Việt Nam đề cập.
Ví dụ ngược lại, nếu Facebook hoạt động ở
Trung Quốc thì có thể lưu trữ dữ liệu tùy ý ở nước ngoài, vì dữ liệu của
Facebook không thuộc vào hạ tầng thông tin quan trọng. Nhưng nếu hoạt động ở Việt
Nam thì Facebook phải sinh ra một phiên bản lưu trữ (ảo) ở Việt Nam…
Khác biệt thứ ba là về thời
gian lưu trữ.
Luật an toàn mạng Trung Quốc
không có quy định về thời gian lưu trữ. Tức
là, người lưu trữ có quyền xóa thông tin nếu không cần nó nữa.
Luật an ninh mạng Việt Nam
thì quy định ngược lại: “Phải lưu trữ dữ liệu...
trong thời gian theo quy định của Chính phủ.” Tức là, cho dù bản thân
phía lưu trữ không cần nữa, nhưng vẫn phải lưu trữ thông tin trong thời gian
theo quy định của Chính phủ, để cung cấp cho cơ quan an ninh. Hệ quả là, nếu
khách hàng đăng bài trên trang mạng thì nhà mạng phải phải lưu trữ một thời gian,
kể cả khi người dùng đã xóa bài trên giao diện của mình thì nhà mạng vẫn phải
lưu trữ tiếp cho hết thời gian theo quy định.
Khác biệt thứ tư là mục đích
lưu trữ. Đó là nguyên nhân của mọi nguyên nhân, gây
ra ba sự khác biệt kể trên.
Mục đích của Điều 37 Luật an toàn mạng Trung Quốc là đảm bảo
an toàn thông tin thuộc các lĩnh vực quan trọng của nền kinh tế quốc gia.
Vì vậy không được lưu trữ chúng ở ngoài lãnh thổ Trung Quốc, và nếu cần phải gửi
chúng ra nước ngoài vì đòi hỏi của công việc thì phải tuân theo những quy định
nghiêm ngặt. Và chỉ áp dụng với “thông tin cá nhân và các dữ liệu quan trọng
khác được thu thập hoặc sản sinh bởi những người điều khiển hạ tầng thông tin
quan trọng”, chứ không áp dụng với thông tin của người dùng mạng xã hội.
Và cũng vì vậy mà phía lưu trữ có thể xóa thông tin nếu thấy không cần lưu trữ
nữa.
Mục đích của Điều 26 Khoản 3
của Luật an ninh mạng Việt Nam là đảm bảo quyền
của cơ quan an ninh mạng trong việc lục lọi thông tin của người dân để khống chế
người dân. Vì vậy, tác giả và đồng tác giả (tức Quốc hội) của Luật an ninh
mạng không quan tâm đến việc bảo đảm an toàn cho thông tin quan trọng của các
ngành kinh tế quan trọng, mà chỉ nhắm vào loại “thông tin cá nhân, dữ liệu về
mối quan hệ của người sử dụng dịch vụ, dữ liệu do người sử dụng dịch vụ tại Việt
Nam tạo ra” trên không gian mạng. Và cũng vì vậy mà “doanh nghiệp trong
và ngoài nước cung cấp dịch vụ trên mạng viễn thông, mạng internet và các dịch
vụ gia tăng trên không gian mạng tại Việt Nam... phải lưu trữ dữ liệu... trong
thời gian theo quy định của Chính phủ”, kể cả khi người tham gia mạng xã hội
đã xóa thông tin mà mình đăng tải trên mạng.
Còn một khác biệt nữa đáng lưu ý.
Luật an toàn mạng Trung Quốc quy định tại Điều 47, nếu phát hiện người dùng mạng
công bố những thông tin bị pháp luật cấm, thì phía điều khiển mạng thông tin phải
thông báo cho cơ quan có thẩm quyền thích hợp, tức là phải thực hiện trách nhiệm
tố cáo tội phạm. Tất nhiên, điều này chỉ có thể áp dụng đối với những thông tin
vi phạm pháp luật một cách rõ ràng. Còn đối với những vi phạm không đủ rõ ràng
thì phía điều khiển mạng thông tin không có trách nhiệm phải phát hiện ra, và
vì vậy không có trách nhiệm phải thông báo cho cơ quan có thẩm quyền. Điều quan
trọng là, Luật an toàn mạng Trung Quốc đưa ra một số quy định cụ thể nhằm tăng
cường bảo vệ thông tin của người dùng, ví dụ:
-
Phía điều khiển mạng không được thu thập những
thông tin cá nhân không liên quan đến dịch vụ mình cung cấp (Điều 41).
-
Phía điều khiển mạng không được để lộ, giả mạo,
hay hủy hoại thông tin cá nhân đã thu thập; không được cung cấp thông tin cá
nhân cho bên thứ ba nếu không được cá nhân đó đồng ý; và nếu thông tin cá nhân
bị đánh cắp, bị mất, hay bị phá hủy thì phải báo ngay chi cá nhân đó biết (Điều
42).
- Người
dùng mạng có quyền yêu cầu phía điều khiển mạng xóa thông tin hoặc sửa chữa sai
sót thông tin của mình (Điều 43).
Quy định nhằm bảo vệ thông tin của người
dùng mạng không phải là mối bận tâm của tác giả Luật an ninh mạng Việt Nam.
Trái lại, họ đòi hỏi doanh nghiệp cung cấp dịch vụ phải chủ động lưu trữ, để “cung
cấp thông tin người dùng cho lực lượng chuyên trách bảo vệ an ninh mạng thuộc
Bộ Công an khi có yêu cầu bằng văn bản” (Khoản
2 Điều 26), cho dù văn bản ấy có thể được ký bởi loại tội phạm đeo quân hàm sĩ
quan công an, tương tự như Thiếu tướng công an Nguyễn
Thanh Hóa, kẻ đã sử
dụng công nghệ cao để tổ chức hoạt động tội phạm, trong khi đang đảm đương chức
vụ Cục trưởng Cảnh sát phòng chống tội phạm sử dụng công nghệ cao.
Hy vọng, thông tin như vậy đã quá đủ để
mọi người xem xét lại định kiến, rằng Luật an ninh mạng Việt Nam là bản sao từ
Trung Quốc, và rằng những cái xấu của giới cầm quyền Việt thường từ “đồng
chí tốt” mà ra. Nghĩ như vậy là vô tình can tội... dìm hàng Việt, bởi vì
xét về năng lực đầu têu cái xấu và làm điều xấu, giới cầm quyền xứ ta chẳng kém
bất kỳ xứ nào.
V. Chiến dịch chi viện
Có
lẽ vẫn chưa đủ yên tâm với những thứ đã được trưng ra để giả danh là “Luật
an ninh mạng” (mà ta đã xem xét trong phần III và IV), họ lại tiếp tục tung
thêm thông tin “138 quốc gia đã ban hành Luật an ninh mạng”. Tin đó được
công bố vào ngày 14/06/2018 trên VTV,
vào ngày 22/06/2018 trên Sài Gòn Giải phóng
(trong mục “Tin nóng trong ngày”) và được đăng đồng loạt
vào lúc 9 giờ 30 phút ngày 23/06/2018 trên hệ thống trang mạng đặc nhiệm:
http://quochoi.org/138-quoc-gia-da-ban-hanh-luat-an-ninh-mang.html
http://nguyenphutrong.org/138-quoc-gia-da-ban-hanh-luat-an-ninh-mang.html
http://trandaiquang.org/138-quoc-gia-da-ban-hanh-luat-an-ninh-mang.html
http://nguyenxuanphuc.org/138-quoc-gia-da-ban-hanh-luat-an-ninh-mang.html
http://nguyenthikimngan.org/138-quoc-gia-da-ban-hanh-luat-an-ninh-mang.html
http://phamminhchinh.org/138-quoc-gia-da-ban-hanh-luat-an-ninh-mang.html
http://hoangtrunghai.org/138-quoc-gia-da-ban-hanh-luat-an-ninh-mang.html
http://vuongdinhhue.org/138-quoc-gia-da-ban-hanh-luat-an-ninh-mang.html
http://tolam.org/138-quoc-gia-da-ban-hanh-luat-an-ninh-mang.html
http://nguyenthiennhan.org/138-quoc-gia-da-ban-hanh-luat-an-ninh-mang.html
http://vovanthuong.org/138-quoc-gia-da-ban-hanh-luat-an-ninh-mang.html
http://nguyentandung.org/138-quoc-gia-da-ban-hanh-luat-an-ninh-mang.html
...
Đặc
biệt, lần này đích thân Chủ tịch nước tham gia chiến dịch. Theo báo Công an
Thành phố Hồ Chí Minh, trong buổi tiếp xúc cử tri tại Thành phố Hồ Chí Minh vào
ngày 19/06/2018, Chủ tịch nước Trần Đại Quang đã tuyên bố:
“Theo số liệu thống kê của
Liên Hợp Quốc, 138 quốc gia (trong đó có 95 nước đang phát triển) đã ban hành
Luật an ninh mạng.”
Và
ông còn tuyên bố nhiều hơn thế về vấn đề an ninh mạng (xem Phụ lục 6).
Vẫn với lối khẳng định chắc nịch như
đinh đóng cột, nhưng tuyệt nhiên không để lộ địa chỉ nguồn tin, khiến người đọc
người nghe khó lòng phát hiện ra chân tướng sự thật.
Biết
tìm thống kê nào trong hàng triệu thống kê? Và tìm kiếm ở bộ phận nào trong số rất
nhiều tổ chức của Liên Hợp Quốc?
Song dù rất khó cũng không phải là hoàn toàn vô vọng, nếu ta chịu đầu tư thời
gian để tìm kiếm một cách nghiêm túc. Hãy vào trang mạng http://unctad.org/en/Pages/DTL/STI_and_ICTs/ICT4D-Legislation/eCom-Cybercrime-Laws.aspx
của United Nations
Conference on Trade and Development (UNCTAD, tức Hội nghị Liên Hiệp Quốc
về Thương mại và Phát triển). Bạn sẽ tìm thấy dưới tiêu
đề “Cybercrime
Legislation Worldwide” câu sau đây:
“138 countries (of
which 95 are developing and transition economies) had enacted such legislation.”
Có thể nhận thấy, về hình thức thì câu này
có vẻ khớp với lời tuyên bố của Chủ tịch nước Trần Đại Quang, rằng “138
quốc gia (trong đó có 95 nước đang phát triển) đã ban hành Luật an ninh mạng”.
Vâng, khớp “138 quốc gia”, khớp “95 nước đang phát triển”, và thậm
chí khớp cả hai dấu ngoặc đơn. Nhưng về nội dung thì lại quá vênh nhau.
Để nhận ra sự vênh nhau, hãy nhấp chuột
vào vị trí được ghi là “Download: Full Data”,
và tải về tệp thống kê mang tên CC.xlsx.
Tiếc rằng, khi rà soát tệp CC.xlsx thì chỉ tìm thấy bốn văn bản
pháp luật, mà tên của chúng có chứa từ Cybersecurity hay Cyber Security. Đó là Cybersecurity and
Cybercrime Law của Cameroon, Law on Cyber Security
của Cộng hòa Séc, Computer Misuse and
Cybersecurity Act của Singapore, và Cyber Security Agency Bill của
Trinidad and Tobago. Nghĩa là, cho dù phát huy truyền thống dịch bừa “cybersecurity”
thành “an ninh mạng”, thì cũng chỉ có được ba luật và một dự luật về an
ninh mạng mà thôi. Song cũng cần nói luôn, cả bốn văn bản ấy đều không phải
là luật hay dự luật về an ninh mạng.
Điều
đáng nói là: Tất cả các luật hay dự luật về cybersecurity của Đức, Hàn Quốc, Mỹ,
Nhật Bản và Trung Quốc đã được đề cập trong phần III và phần IV đều không được
điểm danh trong tệp thống kê CC.xlsx. Trái lại, năm quốc gia ấy
lại được điểm danh bởi những thành tích khác hẳn. Cụ thể là:
-
Đức được điểm danh bởi Criminal Code - Strafgesetzbuch (Bộ
luật hình sự).
-
Hàn Quốc được điểm danh bởi Criminal Act
(Bộ luật hình sự) và Act on Promotion of
Information and Communications Network Utilization and Information Protection,
etc (Luật về thúc đẩy thông tin, sử dụng mạng
thông tin và bảo vệ thông tin…).
-
Mỹ được điểm danh bởi Title 18 - Crimes and
Criminal Procedure (Tiêu đề 18 - Tội phạm và thủ tục tố tụng
hình sự) và Computer Fraud and Abuse
Act (Đạo luật về gian lận và lạm dụng máy tính).
-
Nhật Bản được điểm danh bởi Penal Code (Bộ luật hình sự).
- Trung
Quốc được điểm danh bởi Criminal Law of the
People's Republic of China (Bộ luật hình sự của Cộng
hòa Nhân dân Trung Hoa).
Chỉ riêng với Bộ luật hình sự đã có 67
quốc gia được điểm danh, trong đó có 39 trường hợp với tên gọi Criminal Code,
22 trường hợp với tên gọi Penal Code, 5 trường hợp với tên gọi Criminal Law và
1 trường hợp với tên gọi Criminal Act.
Đặc biệt, mặc dù Quốc hội CHXHCN Việt
Nam mới thông qua Luật an ninh mạng vào ngày 12/06/2018 và Văn phòng Chủ tịch
nước mới họp báo công bố Lệnh của Chủ tịch nước về Luật an ninh mạng vào ngày
28/06/2018, nhưng từ 01/04/2018 Việt Nam đã được UNCTAD đánh giá là đã thực hiện
“Cybercrime Legislation”, tức là đã lọt vào cái danh sách được phía Việt
Nam gọi là “138 quốc gia... đã ban hành Luật an ninh mạng”. Có điều,
không phải với thành tích ban hành Luật an ninh mạng, mà với Decree no. 55/2001/ND-CP
of August 23, 2001 on the Management, Provision and Use of Internet Services,
tức là Nghị định của Chính phủ
số 55/2001/NĐ-CP ngày 23 tháng 8 năm 2001 về quản lý, cung cấp và sử dụng dịch
vụ internet.
Đọc đến đây, chắc mọi người đã nhận ra, cái
danh sách “138 quốc gia...” ấy chỉ thống kê các quốc gia đã có văn bản
pháp luật (kể cả dự thảo) đề cập ít nhiều đến tội phạm trên mạng, mà văn bản đặc
trưng nhất chính là Bộ luật hình sự. Danh sách ấy không chỉ dừng lại ở luật
(vì những thứ như nghị định của Việt Nam cũng được tính) và chẳng hề liên quan
đến khái niệm an ninh mạng (theo kiểu Việt Nam). Vậy mà vị Đại tướng công an
và đội đặc nhiệm lại dõng dạc tuyên bố “138 quốc gia… đã ban hành Luật an
ninh mạng”.
Nếu chỉ là luận điệu của nhà báo hạng
xoàng hay cây bút nặc danh thì chẳng mấy ai bận tâm, và vì vậy cũng chẳng để lại
hậu quả nào đáng kể. Nhưng đằng này lại là tuyên bố long trọng của Chủ tịch nước,
với chức danh Giáo sư và học
vị Tiến sỹ Luật học, trước bao cử tri và được
đài báo truyền đi cả nước...
Bất hạnh thay cho Dân cho Nước, khi những
thông tin sai trái như thế lại được dựa vào để lãnh đạo Quốc gia.
Vậy thì tránh sao khỏi lầm đường lạc lối?
VI. Mấy lời nhắn nhủ
Cũng là “General Secretary” và “President”,
nhưng không thể dịch thành “Tổng thư ký Nguyễn Phú Trọng” và “Tổng thống
Nguyễn Phú Trọng”. Tương tự như vậy, cũng là “Security”,
nhưng không thể dịch “Cyber Security” (an toàn mạng) thành “an ninh mạng”
hay “an ninh trên mạng”. Điều đó thì bộ máy khổng lồ với đủ thứ bằng cấp
không thể không hiểu.
Như
đã chỉ ra ở trên, TẤT CẢ CÁC LUẬT NƯỚC NGOÀI MÀ HỌ ĐÃ TỪNG VIỆN DẪN để
biện hộ (cho Luật an ninh mạng Việt
Nam) ĐỀU KHÔNG PHẢI LÀ LUẬT AN NINH MẠNG.
Và cho đến lúc công bố bài viết này, vẫn chưa thấy họ chỉ ra được một quốc gia
nào khác trên Thế giới cũng có Luật anh ninh mạng, với mục đích tương tự như nội
dung Điều 1 Luật an ninh mạng Việt Nam,
đó là:
“Luật
này quy định về hoạt động bảo vệ an ninh quốc gia và bảo đảm trật tự, an
toàn xã hội trên không gian mạng; trách nhiệm của cơ quan, tổ chức, cá nhân
có liên quan.”
Thế nhưng, họ vẫn dịch Cybersecurity
Law (Luật an toàn mạng) của một số quốc gia thành Luật an ninh mạng.
Rồi huy động cả dự thảo luật hay văn bản dưới luật và cả những thứ không hề
dính đến cybersecurity, để tạo nên ảo giác Luật an ninh mạng đã hiện hữu muôn
nơi. Hơn nữa, họ gán cho Luật an ninh mạng cả vai trò bảo vệ an toàn mạng,
mặc dù Quốc hội khóa XIII đã ban hành Luật an toàn thông tin mạng
(số 86/2015/QH13) vào năm 2015
để thực hiện chức năng bảo vệ sự an toàn của mạng. Bằng cách ấy, họ lừa được
bao người tán thành thông qua Luật an ninh mạng. Cái lý cầm quyền cong
là vậy.
Cái Luật an ninh mạng ấy thuộc loại “chẳng
giống ai”, nhưng lại tạo ra ảo tưởng “phù hợp nhất định với thông lệ quốc
tế và bảo đảm các điều kiện hội nhập quốc tế về an ninh mạng”, như đã viết
trong Tờ trình về Dự án Luật
an ninh mạng của Chính phủ gửi Quốc hội. Đấy
là phép thôi miên, dắt nhau vào cõi u mê, tựa như sa vào xứ sở ma quỷ và rước về
luật lệ của xứ ấy, mà vẫn đinh ninh vớ được một văn bản pháp lý của Thế giới
văn minh.
Xin chúc mừng 15 Đại biểu Quốc hội đã
biểu quyết “KHÔNG TÁN THÀNH” thông qua Luật an ninh mạng. Với quyết
định đúng đắn nhưng đầy khó khăn ấy, các vị đã thể hiện được trình độ, bản lĩnh
và trách nhiệm với dân với nước.
Xin chia vui với 28 Đại biểu Quốc hội
đã biểu quyết... “KHÔNG BIỂU QUYẾT”. Nhờ có đủ can đảm và tự trọng,
các vị đã tránh được một vết nhơ, khỏi phải xấu hổ với gia đình, người thân, bạn
bè và đồng nghiệp.
Đối với 423 Đại biểu Quốc hội đã biểu
quyết “TÁN THÀNH” thông qua Luật an ninh mạng, một khi đã viết ra
bài “Bầu cử kiểu gì khi tệ
ngay từ luật”, tôi cũng chẳng còn ảo tưởng để tranh
luận về những điều cao cả. Vẫn hiểu, các vị cũng có trách nhiệm, nhưng không nhất
thiết là trách nhiệm với dân với nước, mà có thể chỉ là trách nhiệm với thế lực
đã đưa mình vào Quốc hội, nhờ đó có được tiền tài, địa vị và danh vọng. Cũng hiểu,
để duy trì vị trí được ban bằng mọi giá, nhiều vị phải chấp nhận làm mọi việc bị
sai bảo, kể cả những việc sai, việc xấu. Nhưng nên tỉnh táo, để nhận ra điều
sai là sai, điều xấu là xấu và điều ác là ác. Và nếu bị lừa sai là đúng, xấu là
tốt, ác là thiện, thì cũng cần hiểu rằng mình đang bị lừa. Chứ đừng nên phụ họa,
bằng cách tự huyễn hoặc, lừa dối bản thân, rằng đầy tớ có trung thành thì mới
được... chủ lừa. Chẳng vinh quang gì cái thân phận phải nhắm mắt gật bừa, để được
bề trên xoa đầu khen “sáng suốt”.
Nếu nhận ra mình đã bị lừa khi bấm nút “TÁN
THÀNH”, thì đừng vội trách kẻ lừa mình. Trong cộng đồng mà dối trá đã trở
thành tập quán, thậm chí là phương tiện ưa dùng, là vũ khí thông dụng, thì tin
vào dối trá là lỗi của bản thân.
Đừng ngạc nhiên, tại sao họ lại lừa cả
Quốc hội. Bởi vì nếu không lừa được Quốc hội, thì liệu có thể thông qua ngần ấy điều khoản sai
trái trong Hiến pháp và pháp luật hay không?
Đã bị lừa, đang bị lừa và sẽ còn tiếp tục
bị lừa. Nhưng có trở thành nạn nhân của lừa dối
hay không, thì trách nhiệm và quyền hạn tự vệ thuộc về bản thân mỗi người,
không thể đổ lỗi cho ai khác.
Nếu để bị lừa mà chỉ có hại cho bản
thân, thì cứ việc tự làm tự chịu. Nhưng không ai có quyền vin vào cớ bị lừa
đề bấm nút “TÁN THÀNH” những thứ khổ Dân hại Nước.
Chỉ có thể tránh được những thứ luật sai
trái, nếu đa số Đại biểu Quốc hội tư duy bằng đầu chứ không phải bằng mông,
tức là vận dụng trí não để cân nhắc đúng sai trước khi bấm nút, chứ không chỉ
chăm chăm tuân lệnh nhằm giữ cái ghế được ban. Dẫu chỉ đóng vai trò hợp pháp
hóa ý đồ của thế lực cầm quyền, vẫn cần hiểu rằng sẽ không có ai chịu đứng ra
gánh thay Quốc hội trách nhiệm trước Nhân dân và lịch sử Dân tộc.
Luật an ninh là khúc nhạc dạo đầu. Đoạn
cao trào là Luật đặc khu. Sẽ tiếp tục vang lên bài
ca “theo thông lệ quốc tế”, “các nước khác cũng làm như vậy”, vân
vân và vân vân. Một khi Luật an ninh mạng đã được
thuyết minh là cần để bảo vệ chế độ, thì có thể Luật đặc
khu sẽ được lý giải là cần để nuôi chế độ, nuôi đảng, và để trả lương hưu cho quan
chức, trong đó đương nhiên có các đại biểu Quốc hội. Vậy thì lại bấm nút như
xưa ư?
Hãy cân nhắc cẩn trọng. Luật an ninh mạng
có thể sẽ không để lại nhiều hậu quả nặng nề, nếu giới cầm quyền nhận ra những
khía cạnh sai trái và sự lạc lõng giữa Thế giới văn minh, nên chẳng thi hành,
hoặc không thi hành triệt để. Nhưng với Luật đặc khu thì bút sa gà chết. Đất
đai đã trao, dù 99 năm, hay 70 năm, hay 50 năm, đều không dễ lấy lại. Đừng quên
bài học đau đớn mang tên Formosa... Cho nên, hãy tỉnh táo để phân biệt đúng
sai và quyết định có chấp nhận bị lừa tiếp hay không.
* * *
Phụ lục 1. The Basic Act on
Cybersecurity - Đạo luật cơ bản về an toàn mạng của Nhật Bản
The Basic Act on
Cybersecurity là Đạo luật cơ bản về an toàn mạng của Nhật
Bản, mang số 104 của năm 2014. Nó gồm năm phần sau:
Chương
I: Các quy định chung (từ Điều 1 đến Điều 11)
Chương
II: Chiến lược đảm bảo an toàn mạng (Điều 12)
Chương
III: Chính sách cơ bản (từ Điều 13 đến Điều 23)
Chương
IV: Các trung tâm chiến lược đảm bảo an toàn mạng (từ Điều 24 đến Điều 35)
Các
quy định bổ sung
Điều
1 xác định:
“Mục
đích của đạo luật này là thúc đẩy chính sách an toàn mạng một cách toàn diện và
hiệu quả, thông qua: quy định các nguyên tắc cơ bản của chính sách an toàn mạng
quốc gia; xác định trách nhiệm của chính quyền trung ương, chính quyền địa
phương và các tổ chức công quyền liên quan khác; quy định các nội dung thiết yếu
của các chính sách liên quan tới an toàn mạng, như xác định chiến lược an toàn
mạng; và thiết lập các cơ quan đầu não chiến lược về an toàn mạng…”
Điều
2 định nghĩa:
“Khái
niệm “Cybersecurity” có nghĩa là các biện pháp cần được áp dụng để quản lý
thông tin an toàn, như ngăn ngừa sự rò rỉ, biến mất hoặc hư hại của thông tin
được lưu trữ, gửi đi, truyền hay tiếp nhận bằng phương tiện điện tử, từ tính,
hoặc các phương tiện khác không thể nhận ra bởi những chức năng tri giác tự
nhiên; và để đảm bảo sự an toàn và sự tin cậy của cá hệ thống tin, của thông
tin và các mạng viễn thông (kể cả các biện pháp ngăn ngừa cần thiết để chống lại
các hành vi ác ý đối với máy tính điện tử thông qua mạng lưới thông tin hay môi
trường lưu trữ thông tin được tạo ra bởi phương tiện điện tử hay từ tính), và để
các trạng thái được duy trì một cách hợp lý.”
Đặc
biệt, một trong sáu nguyên tắc cơ bản được quy định tại Điều 3 là:
“Việc
thúc đẩy chính sách an toàn mạng phải được thực hiện sao cho không xâm phạm
bất hợp pháp quyền con người.”
Qua đó ta thấy rõ, đạo luật này không hề
đề cập đến vấn đề an ninh chính trị, xã hội trên mạng, và không hề hạn chế
quyền con người.
Các thông tin trên đã quá đủ để khẳng định
rằng: Không thể dịch The Basic Act on Cybersecurity thành Đạo luật cơ bản về
an ninh mạng (như trong Tờ
trình về Dự án Luật an ninh mạng của Chính phủ gửi Quốc hội).
Phụ lục 2. Act
on Cyber Security - Đạo luật an toàn mạng của Cộng hòa Séc
Thông qua trang https://www.cybersecurity.cz/basic_en.html,
có thể xác định rằng cái mà Tờ
trình về Dự án Luật an ninh mạng viết
là Cyber Security Law of the Czech
Republic chính là Act on Cyber Security
(tên viết tắt của On Cyber Security and Change of Related Acts),
tức là Đạo luật an toàn mạng của Cộng hòa Séc, mang số 181 của năm 2014 và có
hiệu lực thi hành từ ngày 01/01/2015. Nó gồm các phần sau:
Phần
một: Đảm bảo an toàn mạng
Chương
I: Các quy định chung (từ Điều 1 đến Điều 3)
Chương
II: Hệ thống bảo đảm an toàn mạng (từ Điều 4 đến Điều 20)
Chương
III: Tình trạng khẩn cấp mạng (Điều 21)
Chương
IV: Tiến hành quản lý nhà nước (Điều 22)
Chương
V: Kiểm tra, giám sát và các vi phạm quản lý (Điều 23 đến Điều 27)
Chương
VI: Các quy định cuối (Điều 28 đến Điều 33)
Phần
hai: Sửa đổi Đạo luật về bảo vệ thông
tin phân loại và tư cách đảm bảo an toàn
Phần
ba: Sửa đổi Đạo luật thông tin điện tử
Phần
bốn: Sửa đổi Đạo luật về tự do thông tin
Phần
năm: Sửa đổi Đạo luật về phát thanh và truyền hình
Phần
sáu: Hiệu lực thi hành
Về
đối tượng của đạo luật, Điều 1 Khoản 1 viết:
“Đạo
luật này quy định quyền và nghĩa vụ của thể nhân và pháp nhân, thẩm quyền và
quyền lực của các cơ quan công quyền trong lĩnh vực an toàn mạng.”
Về
khái niệm “Security of information”, Điều
2 viết:
“Security
of information (bảo đảm an toàn thông tin) có nghĩa là đảm bảo sự bí mật, tính
nguyên vẹn và tính khả dụng của thông tin.”
Về
khái niệm “Security measures”, Điều 4 Khoản 1 viết:
“Security
measures (biện pháp đảm bảo an toàn) có nghĩa là hệ thống các thao tác với mục
đích đảm bảo an toàn của thông tin trong các hệ thống thông tin, tính khả dụng
và tính đáng tin của các dịch vụ và các mạng truyền thông điện tử trong không
gian mạng.”
Trong bản dịch tiếng Anh (dài 18 trang)
của Act on Cyber Security,
từ “the state” xuất hiện 11 lần, nhưng luôn trong ngữ cảnh “the state
of emergency” hay “the state of cyber emergency” để chỉ tình trạng
khẩn cấp, chứ không có lần nào có nghĩa là “nhà nước” (để chỉ thứ tội “chống
nhà nước”). Từ “national security”
(anh ninh quốc gia) cũng chẳng xuất hiện lần nào. Viết thêm như vậy để thấy rằng:
Không thể dịch Act
on Cyber Security thành Luật
an ninh mạng (như trong Tờ
trình về Dự án Luật an ninh mạng của Chính phủ gửi Quốc hội).
Phụ lục 3. Dự
luật của Hàn Quốc
Legislative Bill for
National Anti-Cyberterrorism Act (2013) là Dự luật phòng chống khủng
bố mạng quốc gia của Hàn Quốc. Nó gồm
các phần sau:
Chương
I: Các quy định chung (từ Điều 1 đến Điều 5)
Chương II: Phòng ngừa khủng bố mạng cấp quốc
gia và hệ thống điều hành xử lý khủng hoảng (từ Điều 6 đến Điều 9)
Chương III: Chống khủng bố mạng và điều hành xử
lý khủng hoảng mạng (từ Điều 10 đến Điều 17)
Chương
IV: Nghiên cứu & phát triển, hỗ trợ (từ Điều 18 đến Điều 24)
Chương
IV: Quy định về hình phạt (Điều 25 và Điều 26)
Thuật
ngữ “khủng bố mạng” có thể khiến nhiều người nghĩ, dự luật này được dành
cho vấn đề an ninh (chính trị, xã hội) trên mạng. Suy luận này khớp với giải
thích từ “khủng bố mạng” tại Điều 2 Khoản 9 Luật an ninh mạng Việt Nam:
“Khủng
bố mạng là việc sử dụng không gian mạng, công nghệ thông tin hoặc phương tiện
điện tử để thực hiện hành vi khủng bố, tài trợ khủng bố.”
Nhưng
các nhà làm luật Hàn Quốc lại định nghĩa khác hẳn tại Điều 2 Khoản 1 của Dự luật
phòng chống khủng bố mạng quốc gia:
“Khủng
bố mạng là mọi hành động tấn công xâm nhập, gây rối, làm tê liệt, hoặc phá hủy
hạ tầng viễn thông thông tin, hoặc các hành động nhằm đánh cắp, hủy hoại thông
tin và phát tán thông tin sai lệch, bằng các phương tiện điện tử như đột nhập,
virut máy tính, từ chối dịch vụ và sóng điện từ.”
Cũng
tại Điều 2 Khoản 1 của Dự luật, khái niệm “Cyber Security” được định
nghĩa như sau:
“Cyber Security có nghĩa
là các biện pháp và cách ứng phó bằng các phương tiện quản lý, vật chất và công
nghệ nhằm bảo vệ hạ tầng truyền thông và thông tin trước khủng bố mạng, bao gồm
cả việc điều hành xử lý khủng hoảng mạng.”
Theo
nghĩa ấy, chỉ có thể dịch “Cyber Security” thành “biện pháp bảo đảm
an toàn mạng”, chứ không thể dịch thành “an ninh mạng”.
Mục
đích của Dự luật là bảo vệ sự an toàn của mạng quốc gia, và điều đó được xác định
rõ ràng tại Điều 1:
“Mục
đích của Đạo luật là đóng góp cho an ninh và lợi ích quốc gia bằng cách xác định
các tình huống cơ bản trong việc ngăn ngừa khủng bố mạng quốc gia, nhằm đối phó
khủng bố mạng đe dọa an ninh quốc gia và cho phép phản ứng nhanh bằng cách tập
trung năng lực quốc gia trong các trường hợp khủng hoảng mạng.”
Tóm lại, National Anti-Cyberterrorism
Act của Hàn Quôc là một dự luật về an toàn mạng, chứ không phải là dự luật về an
ninh mạng (như Tờ
trình về Dự án Luật an ninh mạng của Chính phủ gửi Quốc hội đã
viết).
Phụ lục 4. Một số đạo luật của Mỹ về an
toàn mạng
Trang Cyber Security Laws of
Different Countries (Luật an toàn mạng của các
nước) của International Commission on Cyber Security Law
(Hội đồng Quốc tế về Luật an toàn mạng) liệt kê ba đạo luật của Hợp chúng quốc
Hoa Kỳ về an toàn mạng, đó là Cybersecurity Enhancement Act of 2014, National
Cybersecurity Protection Act of 2014, Cybersecurity Act of 2015.
Cybersecurity
Enhancement Act of 2014 (Public Law 113-274) có
nghĩa là Đạo luật tăng cường an toàn mạng năm 2014 (Công luật số 113-274), được
Tờ trình về Dự án Luật an ninh mạng dịch thành Đạo luật tăng cường an ninh mạng
năm 2014. “Một đạo luật tạo mối liên kết công-tư tình nguyện tiếp diễn nhằm
cải tiến biện pháp an toàn mạng và tăng cường nghiên cứu và phát triển an toàn
mạng, phát triển và đào tạo lực lượng lao động, ý thức công cộng và sự sẵn
sàng, và cho các mục đích khác” - đó là tên đầy đủ, và cũng đủ để nói lên nội
dung của đạo luật.
National Cybersecurity
Protection Act of 2014 (Public Law 113-282) có
nghĩa là Đạo luật bảo vệ an toàn mạng quốc gia năm 2014 (Công luật số 113-282),
được Tờ trình về Dự án Luật an ninh mạng dịch thành Đạo luật bảo vệ an ninh mạng
quốc gia 2014. “Một đạo luật để lập điều lệ cho một trung tâm thao tác an
toàn mạng đang tồn tại” - đó là tên đầy đủ của đạo luật.
Cybersecurity Act of
2015 có nghĩa là Đạo luật an toàn mạng năm 2015.
Nó là Phân đoạn N của Công luật số 114-113,
và bản thân nó chứa bốn tiêu đề với tên trích dẫn riêng như sau:
-
Tiêu đề I, có tên trích dẫn là Cybersecurity
Information Sharing Act of 2015, tức Đạo luật chia sẻ thông tin an toàn mạng
năm 2015. Tờ trình về Dự án Luật an ninh mạng gọi nó là Dự luật chia sẻ thông
tin an ninh mạng năm 2015.
-
Tiêu đề II.A, có tên trích dẫn là National
Cybersecurity Protection Advancement Act of 2015, tức Đạo luật khuyến khích bảo
vệ an toàn mạng quốc gia năm 2015. Có thể nó là cái mà Tờ trình về Dự án Luật
an ninh mạng gọi là Dự luật tăng cường bảo vệ an ninh mạng quốc gia năm 2015.
-
Tiêu đề II.B, có tên trích dẫn là Federal
Cybersecurity Enhancement Act of 2015, tức Đạo luật tăng cường bảo đảm an toàn
mạng Liên bang năm 2015.
- Tiêu
đề III, có tên trích dẫn là Federal Cybersecurity Workforce Assessment Act of
2015, tức Đạo luật đánh giá lực lượng bảo đảm an toàn mạng năm 2015. Tờ trình về
Dự án Luật an ninh mạng gọi nó là Đạo luật đánh giá lực lượng an ninh mạng.
Ngoài ba công luật được thống kê trên
trang Cyber Security Laws of
Different Countries (Luật an toàn mạng của các
nước) còn có Federal Information
Security Modernization Act of 2014 (Public Law 113-283),
có nghĩa là Đạo luật hiện đại hóa biện pháp an toàn thông tin Liên bang. Tờ
trình về Dự án Luật an ninh mạng gọi nó là Đạo luật hiện đại hóa an ninh thông
tin Liên bang năm 2014.
Tóm lại, các đạo luật được liệt kê ở
trên đều nhằm bảo đảm an toàn mạng, chứ không xử lý vấn đề an ninh trên mạng
(như Tờ
trình về Dự án Luật an ninh mạng của Chính phủ gửi Quốc hội đã
viết).
Phụ lục 5. IT-Sicherheitsgesetz - Luật an
toàn mạng của CHLB Đức
IT-Sicherheitsgesetz là tên gọi tắt của Gesetz zur Erhöhung der Sicherheit
informationstechnischer Systeme, tức Luật tăng cường an
toàn các hệ thống kỹ thuật thông tin. Ngày 17/12/2014 Chính phủ Liên bang
Đức thông qua bản dự thảo của IT-Sicherheitsgesetz, và
sáu tháng sau Quốc hội Đức mới thông qua Luật này vào ngày 12/06/2015. Vậy
mà ngày 18/12/2014 VTV đã tung ra tin “Đức thông qua Luật an ninh mạng”.
Luật này có 11 điều. Điều 10 quy định về việc
đánh giá lại ba khoản của Điều 1 sau 4 năm thực hiện. Điều 11 quy định về thời
điểm có hiệu lực thi hành. 9 điều còn lại quy định về sửa đổi trong tám luật đã
được ban hành từ trước, cụ thể như sau.
Điều 1 và Điều 8 quy định về một số sửa đổi
trong BSI-Gesetz, tên gọi tắt của Gesetz über das Bundesamt für Sicherheit in der
Informationstechnik (Luật về Văn phòng Liên bang phụ trách an
toàn kỹ thuật thông tin). Nội dung thay đổi là mở rộng vai trò của Văn phòng
liên bang phụ trách an toàn kỹ thuật thông tin, đặc biệt là vai trò tư vấn.
Điều 2 quy định về sửa đổi Điều 44b của
Atomgesetz (Luật nguyên tử), tên gọi tắt của Gesetz über die friedliche Verwendung der Kernenergie und
den Schutz gegen ihre Gefahren (Luật về sử dụng năng lượng
hạt nhân vì mục đích hòa bình và phòng chống hiểm họa của nó).
Điều 3 quy định về một số sửa đổi trong
Energiewirtschaftsgesetz (Luật kinh tế năng lượng), tên gọi tắt của Gesetz über die Elektrizitäts- und Gasversorgung (Luật
cung cấp điện năng và khí đốt).
Điều 4 quy định về sửa đổi Điều 13 và Điều 16
của Telemediengesetz (Luật dịch vụ thông tin liên
lạc điện tử).
Điều 5 quy định về một số sửa đổi trong Telekommunikationsgesetz (Luật
viễn thông).
Điều 6 quy định một thay đổi nhỏ trong Bundesbesoldungsgesetz (Luật
tiền lương Liên bang), đó là chuyển Chủ tịch Trung tâm đào tạo Quân đội Đức từ
nhóm lương B 6 sang nhóm lương B 7.
Điều 7 quy định một thay đổi nhỏ trong Điều 4
của Bundeskriminalamtgesetz (Luật Văn phòng cảnh sát hình sự Liên bang), tên gọi
tắt của Gesetz über das Bundeskriminalamt
und die Zusammenarbeit des Bundes und der Länder in kriminalpolizeilichen
Angelegenheiten (tức Luật về Văn Văn phòng cảnh sát hình sự
Liên bang và việc phối hợp giữa Liên bang và các bang trong công tác cảnh sát
hình sự).
Điều 9 quy định về việc xóa Khoản 7 Điều 3 của
Gesetz zur Strukturreform des
Gebührenrechts des Bundes (Luật cải cách cơ cấu thu phí của Liên
bang).
Kể chi tiết như vậy để thấy rằng, IT-Sicherheitsgesetz
thực sự là Luật an toàn mạng và hoàn toàn không liên quan đến cái gọi là Luật
an ninh mạng.
Hơn nữa, cũng để lưu ý một bài học, đáng để
các nhà làm luật Việt Nam học hỏi. Đó là, để đáp ứng tình hình mới thì không nhất
thiết phải ban hành một luật hoàn toàn mới, mà có thể chỉ cần sửa đổi một số
quy định trong các luật hiện hành. Và để sửa đổi chúng thì không nên quy định
trong nhiều luật lẻ tẻ, tương ứng với các luật phải sửa đổi, mà nên gói chung
trong một luật mới, giống như Luật an toàn mạng của Đức. Nếu các nhà làm luật
Việt Nam quy định trong Luật an ninh mạng về việc sửa đổi Khoản 1 Điều 18 Luật
an toàn thông tin mạng, thì đã không dẫn đến mâu thuẫn giữa nó và Khoản 2 Điều
26 của Luật an ninh mạng.
Phụ
lục 6
Trong buổi tiếp xúc với cử tri tại
Thành phố Hồ Chí Minh vào ngày 19/06/2018, Chủ tịch nước Trần Đại Quang tuyên bố:
“Hiện
nay, có 18 quốc gia yêu cầu nhà cung cấp dịch vụ mạng, nhất là mạng xã hội, phải
lưu trữ dữ liệu tại quốc gia đó. Tháng 5/2018, Liên minh châu Âu chính thức yêu
cầu Facebook phải lưu trữ dữ liệu tại các nước thuộc Liên minh.”
Thử hỏi, thông tin “có 18 quốc gia yêu cầu
nhà cung cấp dịch vụ mạng, nhất là mạng xã hội, phải lưu trữ dữ liệu tại
quốc gia đó” được lấy từ tài liệu nào? Chịu tai tiếng như Cybersecurity Law
of the People’s Republic of China, mà cũng không hề “yêu cầu nhà cung cấp dịch
vụ… mạng xã hội phải lưu trữ dữ liệu tại quốc gia đó”, thì cái
yêu cầu ấy có thể tồn tại ở 18 quốc gia nào?
Và
thông tin “Tháng 5/2018, Liên minh châu Âu chính thức yêu cầu Facebook phải
lưu trữ dữ liệu tại các nước thuộc Liên minh” được lấy từ đâu? Lưu ý rằng, General Data Protection Regulation
of the European Union (tức Quy định chung về bảo vệ dữ liệu của
Liên minh châu Âu, được viết tắt là GDPR) bắt
đầu có hiệu lực thi hành từ ngày 25/05/2018.
Khoản 1 Điều 3 GDPR khẳng định:
“Quy
định này áp dụng cho việc xử lý thông tin cá nhân trong khuôn khổ hoạt động của
một cơ sở kinh doanh của nhà quản lý hay nhà xử lý đặt tại EU, không phụ thuộc
vào việc xử lý được thực hiện ở trong hay ngoài EU.”
Chương V (từ Điều 44 đến Điều 50) được dành để
quy định về việc chuyển thông tin cá nhân sang nước thứ ba và các tổ chức quốc
tế, với những điều kiện không hề ngặt nghèo, có thể thỏa mãn dễ dàng. Đặc biệt,
trong khi thời gian lưu trữ dữ liệu được đề cập đến 10 lần, thì GDPR không hề
đề cập đến địa điểm lưu trữ dữ liệu, tức là không có bất kỳ đòi hỏi hay
hạn chế nào về địa điểm lưu trữ dữ liệu. Vậy thì dựa vào đâu để nói rằng “Liên
minh châu Âu chính thức yêu cầu Facebook phải lưu trữ dữ liệu tại các nước thuộc
Liên minh”?
Ngày 8 tháng 10 năm 2018
Cùng
tác giả:
Luật an ninh mạng - Tượng
đài... cô đơn
Một số điều cần trao đổi
nhân vụ Trịnh Xuân Thanh
Mấy ý kiến trao đổi về
tiêu chuẩn bổ nhiệm chức danh giáo sư
Bầu cử kiểu gì khi tệ
ngay từ luật
Oan ức trĩu Hồn Cây
Sai phạm về tố tụng trong vụ án "Nguyễn Hữu Vinh cùng
đồng bọn…"
Não lòng với Hiến pháp
Bắt mạch Hiến… nháp
Hiến pháp vi hiến
Hiến pháp 2013 - Sửa nhầm
hay đổi thiệt?
Đảng và Nhân dân - Vị thế
bị tráo
Uẩn khúc trong Điều 4 Hiến
pháp
Rủi cho Phương Uyên -
May cho Dimitrov
Quốc hiệu nào hội tụ
lòng Dân?
Chỗ đứng của Nhân dân trong
Hiến pháp
Teo dần quyền con người
trong Hiến pháp
Hai tử huyệt của chế độ
Lực cản Nhà nước pháp
quyền
Một số khía cạnh hình sự
của vụ án Tiên Lãng - Hải Phòng
Nhân vụ Tiên Lãng bàn về
công vụ
Quyền biểu tình của công dân
Bài học tồn vong từ thảm
họa
Phiêu lưu điện hạt nhân
Về huyền thoại điện hạt
nhân giá rẻ
Mạn bàn về an toàn điện
hạt nhân
Bàn về qui mô đào tạo đại
học từ góc độ chất lượng giảng viên