Càng an ninh mạng dân càng bất an
Hoàng Xuân Phú
"Quốc hội đã sáng suốt
thông qua với tỷ lệ 86,86%." Đó là khẳng định của Tổng Bí
thư Đảng Cộng sản Việt Nam Nguyễn Phú Trọng tại buổi
tiếp xúc cử tri ở Hà Nội vào ngày 17/06/2018, về việc Quốc hội Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam khóa XIV biểu quyết
thông qua Luật an ninh mạng.
Để có thể đánh giá mức độ "sáng suốt"
của Quốc hội, ta hãy cùng nhau xem xét một số điểm vi hiến của Luật an ninh mạng số 24/2018/QH14 (phần
1) và hệ quả của chúng (phần 2).
1. Nhận diện vi hiến
Quốc hội khóa XI đã ban hành Luật an ninh quốc gia số
32/2004/QH11 vào năm 2004. Quốc hội khóa XIII mới ban
hành Luật an toàn thông tin mạng số
86/2015/QH13 và Bộ luật hình sự sửa đổi số
100/2015/QH13 vào năm 2015. Để rồi Quốc hội khóa XIV lại ban
hành Luật số 12/2017/QH14 sửa
đổi, bổ sung một số điều của Bộ luật hình sự số 100/2015/QH13 vào năm 2017. Hiển
nhiên, sau hai lần sửa đổi liên tục như vậy, quy định về các tội thuộc lĩnh vực
an ninh quốc gia và trật tự xã hội đã được cập nhật. Đặc biệt, Bộ luật hình sự hiện hành
dành riêng một mục với mười điều (từ Điều 285 đến điều 294) để quy định về tội
phạm trong lĩnh vực công nghệ thông tin, mạng viễn thông.
Như vậy, đối với lĩnh vực bảo vệ an ninh trên
mạng, những nhiệm vụ mà các cơ quan nhà nước phải tiến hành đã được quy định
trong Luật an ninh quốc gia và Luật an toàn thông tin mạng, còn
các hành vi bị cấm và hình thức xử lý thì đã được quy định trong Bộ luật hình sự. Do
đó, cần đặt ra câu hỏi: Quốc hội khóa XIV có nhất thiết phải ban hành thêm Luật an ninh mạng hay
không? Giả sử có quy định nào đó chưa hợp lý hay còn thiếu, thì chỉ cần sửa đổi,
bổ sung theo thông lệ lập pháp, chứ tại sao lại sinh thêm một luật mới?
Có lẽ một phần câu trả lời ở nằm ở vai trò "chủ
hộ" của luật. Trong Luật an toàn thông tin mạng, Bộ
Thông tin và Truyền thông xuất hiện 26 lần, trong đó 6 lần với tư cách chủ trì,
còn Bộ Công an xuất hiện 7 lần, trong đó 2 lần với tư cách chủ trì. Trong Luật an ninh mạng thì
ngược lại, Bộ Công an xuất hiện 28 lần, trong đó 6 lần với tư cách chủ
trì, còn Bộ Thông tin và Truyền thông chỉ xuất hiện 4 lần, và chẳng lần nào với
tư cách chủ trì. Phải chăng, vì Luật an toàn thông tin mạng là "biệt
thự" do Bộ Thông tin và Truyền thông làm "chủ
hộ", nên phải dựng thêm "biệt thự" Luật an ninh mạng để
cho Bộ Công an làm "chủ hộ"?
Vấn đề không chỉ dừng lại ở đó. Trong khi Luật an ninh quốc gia chỉ
dùng 146 chữ để xác định cách xử lý các hành vi xâm phạm an ninh quốc gia (tại Điều
12) và Luật an toàn thông tin mạng chỉ
dùng 55 chữ để viết về nguyên tắc xử lý vi phạm pháp luật về
an toàn thông tin mạng (tại Điều 8), thì Luật an ninh mạng quy
định cụ thể về cung cách, hình thức và mức độ xử lý các hành vi vi phạm. Tức
là Luật an ninh mạng đã lấn sân Bộ luật hình sự và Bộ luật tố tụng hình sự.
Vì vậy, để có thể tìm ra phần còn lại của câu trả lời, ta cần đối chiếu với cả hai
bộ luật ấy.
1.1.
Trừng phạt người vô tội
Khoản
1, 2, 3, 4 và 5 Điều 16 Luật an ninh mạng quy định năm loại thông tin phải
phòng ngừa và xử lý, đó là:
"1.
Thông tin trên không gian mạng có nội dung tuyên truyền chống Nhà nước Cộng hòa
xã hội chủ nghĩa Việt Nam..."
"2.
Thông tin trên không gian mạng có nội dung kích động gây bạo loạn, phá rối an
ninh, gây rối trật tự công cộng..."
"3.
Thông tin trên không gian mạng có nội dung làm nhục, vu khống…"
"4.
Thông tin trên không gian mạng có nội dung xâm phạm trật tự quản lý kinh tế..."
"5.
Thông tin trên không gian mạng có nội dung bịa đặt, sai sự thật gây hoang mang
trong Nhân dân, gây thiệt hại cho hoạt động kinh tế - xã hội, gây khó khăn cho
hoạt động của cơ quan nhà nước hoặc người thi hành công vụ, xâm phạm quyền và lợi
ích hợp pháp của cơ quan, tổ chức, cá nhân khác."
Về
biện pháp xử lý, khoản 7 Điều 16 quy định:
"7.
Lực lượng chuyên trách bảo vệ an ninh mạng và cơ quan có thẩm quyền áp
dụng biện pháp quy định tại các điểm h, i và l khoản 1 Điều 5 của Luật này để xử
lý thông tin trên không gian mạng có nội dung quy định tại các khoản 1, 2, 3, 4
và 5 Điều này."
Tức
là áp dụng các biện pháp sau:
"h)
Ngăn chặn, yêu cầu tạm ngừng, ngừng cung cấp thông tin mạng; đình chỉ,
tạm đình chỉ các hoạt động thiết lập, cung cấp và sử dụng mạng viễn thông, mạng
internet, sản xuất và sử dụng thiết bị phát, thu phát sóng vô tuyến theo
quy định của pháp luật."
"i)
Yêu cầu xóa bỏ thông tin trái pháp luật hoặc thông tin sai sự thật
trên không gian mạng xâm phạm an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội; quyền
và lợi ích hợp pháp của cơ quan, tổ chức, cá nhân."
"l)
Phong tỏa, hạn chế hoạt động của hệ thống thông tin; đình chỉ, tạm đình chỉ
hoặc yêu cầu ngừng hoạt động của hệ thống thông tin, thu hồi tên miền theo
quy định của pháp luật."
Có
điều gì đặc biệt ở đây? Trước hết, nếu soạn thảo, đăng tải, tán phát thông tin
quy định tại các khoản 1, 2, 3, 4 và 5 Điều 16, thì phạm phải những tội đã được
quy định tại Bộ luật hình sự hiện hành, chẳng
hạn:
-
Điều
117 quy định về tội làm, tàng trữ, phát tán hoặc tuyên truyền thông tin, tài liệu,
vật phẩm nhằm chống Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
-
Điều
118 quy định về tội phá rối an ninh.
-
Điều
155 quy định về tội làm nhục người khác.
-
Điều
156 quy định về tội vu khống.
-
Điều
318 quy định về tội gây rối trật tự công cộng.
Với
các tội đó, trách nhiệm của các cơ quan có thẩm quyền là khởi tố, điều tra, truy
tố và xét xử. Vậy mà khoản 7 Điều 16 Luật an ninh mạng lại chỉ quy
định "áp dụng các biện pháp quy định tại các điểm h, i và l khoản
1 Điều 5", tức là không nhắc tới biện pháp khởi tố, điều tra, truy tố,
xét xử, mặc dù biện pháp ấy được quy định tại điểm m của chính khoản 1 Điều 5:
"m)
Khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự."
Nếu ai đó soạn thảo, đăng tải, tán phát thông
tin quy định tại khoản 1 hoặc khoản 2 của Điều 16 Luật an ninh mạng, thì người ấy
phạm vào tội được quy định tại Điều 117 hoặc Điều 118 của Bộ luật hình sự. Do
đó có thể nhanh chóng khởi tố, bắt giam để điều tra, truy tố, xét xử, và cuối
cùng phạt tù ít nhất cũng 5 năm. Vậy thì tại sao lại chần chừ? Vốn chẳng
ngại hành xử bất chấp pháp luật, bắt giam và kết án cả những người vô tội, không
lẽ bây giờ lại tự dưng tỉnh ngộ, mà trở nên quá nhân từ, chẳng nỡ khởi tố, truy
tố, xét xử tội phạm hình sự hay sao? Hơn nữa, khi đã bị giam trong nhà tù của
chế độ này, thì hiển nhiên người bị giam không được cung cấp thông tin mạng, và
cũng không thể tự do thiết lập, sử dụng mạng viễn thông và mạng internet. Vậy
thì tại sao còn phải "yêu cầu tạm ngừng, ngừng cung cấp thông tin mạng"
và "đình chỉ, tạm đình chỉ các hoạt động thiết lập, cung cấp và sử dụng
mạng viễn thông, mạng internet", như quy định tại điểm h khoản 1 Điều
5 Luật an ninh mạng?
Tồn tại một giả thuyết, có thể giải đáp đồng
thời mấy thắc mắc trên. Đó là: Đối tượng xử lý của Điều 16 Luật an ninh mạng
trước hết là những người vô tội, mà sự vô tội rõ ràng đến mức sẽ quá trơ
trẽn nếu phát huy truyền thống vu khống để khởi tố, truy tố, xét xử và phạt tù.
Thành thử, mặc dù cáo buộc họ phạm phải những tội hình sự nghiêm trọng, nhưng vẫn
đành phải chấp nhận để họ tự do về thể xác, và chỉ sử dụng Luật an ninh mạng
để tước bỏ tự do về tinh thần.
Kể cả khi giả thuyết trên bị phủ định, thì vẫn
còn một thứ vi hiến chẳng thể biện hộ. Đó là, khi "áp dụng biện pháp
quy định tại các điểm h, i và l khoản 1 Điều 5 của Luật này để xử lý",
thì có nghĩa là đã phán xét "thông tin trên không gian mạng có nội
dung quy định tại các khoản 1, 2, 3, 4 và 5 Điều này". Tức là đã phán
xét hành vi của đương sự vi phạm các điều tương ứng trong Bộ luật hình sự.
Điều đó cũng đồng nghĩa với việc cơ quan công an phán xét đương sự đã
phạm tội hình sự. Như vậy hiển nhiên là vi phạm khoản 1 Điều 31 Hiến
pháp 2013: "Người bị buộc tội được coi là không có tội cho đến khi được
chứng minh theo trình tự luật định và có bản án kết tội của Tòa án đã có hiệu lực
pháp luật."
Rõ ràng, Luật an ninh mạng đã cho phép cơ
quan công an tự ý kết tội, mà không đợi "Tòa án nhân dân... thực
hiện quyền tư pháp", tức là vi phạm khoản 1 Điều 102 Hiến pháp 2013.
Hơn thế nữa, Luật an ninh mạng cũng cho phép cơ quan công an bỏ qua công đoạn
"Viện kiểm sát nhân dân thực hành quyền công tố", tức là vi phạm
khoản 1 Điều 107 Hiến pháp 2013.
Như
vậy cũng đương nhiên vi phạm cả các quy định tương ứng của Bộ luật tố tụng hình
sự. Và không chỉ dừng lại ở đó. Khoản 2 Điều 26 Luật an ninh mạng quy định các
doanh nghiệp cung cấp dịch vụ trên mạng phải
"Xác
thực thông tin khi người dùng đăng ký tài khoản số; ... cung cấp thông tin
người dùng cho lực lượng chuyên trách bảo vệ an ninh mạng thuộc Bộ Công an khi
có yêu cầu bằng văn bản để phục vụ điều tra, xử lý hành vi vi phạm pháp luật
về an ninh mạng."
Có
nghĩa là Luật an ninh mạng trao cho cơ quan công an quyền khám xét, thu giữ
thông tin người dùng mạng, mà hoàn toàn không nhắc tới vai trò của Viện kiểm
sát. Tức là vi phạm Điều 193 Bộ luật tố tụng hình sự số
101/2015/QH13, quy định rằng:
"Lệnh khám xét của những
người được quy định tại khoản 2 Điều 35 và điểm a khoản 1 Điều 113 của Bộ luật
này phải được Viện kiểm sát có thẩm quyền phê chuẩn trước khi thi hành…"
(Ghi chú: Những người được quy định tại điểm a khoản 1 Điều 113 là "Thủ trưởng,
Phó Thủ trưởng Cơ quan điều tra các cấp".)
Tại sao thực hiện chức năng của Bộ luật
hình sự và Bộ luật tố tụng hình sự mà Luật an ninh mạng lại phớt lờ vai trò của
Viện kiểm sát và Tòa án (đã được quy định trong Bộ luật tố tụng hình sự)? Thậm
chí, cả Viện kiểm sát lẫn Tòa án đều không được nhắc tới một lần nào trong Luật
an ninh mạng. Chẳng lẽ bị Bộ công an lấn át, mà Viện kiểm sát và Tòa án đành phải
lặng thinh hay sao? Điều đó khó có thể xảy ra. Vì cả bộ ba ấy đều chịu sự lãnh
đạo thống nhất và triệt để của Bộ chính trị ĐCSVN. Hơn nữa, việc tướng công an Nguyễn Hòa
Bình đảm nhiệm chức vụ Viện trưởng Viện kiểm sát
nhân dân tối cao từ 26/7/2011 đến 8/4/2016, rồi tiếp tục đảm nhiệm chức vụ Chánh
án Tòa án nhân dân tối cao từ 8/4/2016 đến nay, cho thấy dù đi đâu về đâu thì họ
cũng chỉ là quân một nhà, hà tất phải lấn át nhau.
Lý do thực sự là gì thì người trong cuộc
mới biết rõ. Người ngoài chỉ có thể phỏng đoán, chẳng hạn thông qua hai cái lợi
có được nhờ "bỏ rơi" Viện kiểm sát và Tòa án. Một là, nhờ "tiết
kiệm" hai trong ba thành phần tố tụng, nên có thể xử nhanh hơn và xử
nhiều người hơn hẳn. Hai là, khi kết tội người vô tội, sự vắng mặt của Viện
kiểm sát và Tòa án không chỉ cho phép phía công an mặc sức hoành hành, mà còn có
tác dụng tránh gia tăng tiếng xấu cho hai cơ quan ấy. Như vậy là lợi cả đôi
đường.
Cho dù thực tâm và ý đồ của tác giả thế
nào đi nữa, thì Luật an ninh mạng cũng tất yếu dẫn tới những phán xử oan sai
dành cho người vô tội. Vì sao? Nếu cơ quan điều tra có thể đứng ra xét xử một
cách chính xác, công bằng và đúng pháp luật, thì Thế giới đã chẳng cần phải
nuôi thêm bộ máy công tố và tòa án, vừa tốn tiền vừa phí thời gian. Cho nên, sự
tồn tại của bộ máy công tố và tòa án đã mặc nhiên thừa nhận, nếu cho phép cơ
quan điều tra tự đứng ra xét xử thì không thể tránh khỏi oan sai. Ở các nước
văn minh, nơi có nhà nước pháp quyền đích thực, đã không thể tránh khỏi. Ở xứ đích
thị luật rừng, nơi an ninh và côn đồ đôi
khi chỉ khác nhau ở chỗ trong hay ngoài biên chế,
thì điều đó lại càng không thể tránh khỏi.
Điều 20 Hiến pháp 2013 khẳng định: "Mọi
người có quyền bất khả xâm phạm về thân thể ...; không bị tra tấn, bạo lực,
truy bức, nhục hình hay bất kỳ hình thức đối xử nào khác xâm phạm thân thể".
Vậy mà đám an ninh lại ngang
nhiên đánh đập hết sức dã man bao người, chỉ vì họ thực hiện quyền biểu tình đã
được hiến định, hay đơn thuần chỉ là khách vãng lai, vô tình sa vào vòng vây quỷ
dữ. Đó là bằng chứng hùng hồn, cho thấy lực lượng anh ninh
của chế độ này coi Hiến pháp Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam không hơn tờ giấy
lộn, có thể mặc sức chà đạp.
Có lẽ bạn đọc trung thành của báo đảng sẽ
cho rằng, đó là luận điệu bịa đặt của thế lực thù địch, nhằm bôi nhọ chế độ
tươi đẹp. Hoặc nếu thừa nhận có chuyện "quá tay", thì chẳng
qua cũng chỉ là hành động bột phát của một vài lính trẻ mới vào nghề, chưa kịp thấm
nhuận sáu điều Bác Hồ dạy Công an nhân dân mà thôi. Nếu vậy thì hãy trả lời câu
hỏi: Điều gì sẽ xảy ra, nếu cầm đầu lực lượng bảo vệ an ninh mạng cũng thuộc chủng
loại như Thiếu tướng công an Nguyễn
Thanh Hóa? Từng lãnh đạo Cục Cảnh sát điều tra tội phạm
kinh tế, rồi được bổ nhiệm làm Cục trưởng đầu tiên của Cục Cảnh sát phòng chống
tội phạm sử dụng công nghệ cao, từ khi thành lập vào năm 2009 cho đến tận cuối
năm 2017, rõ ràng Nguyễn Thanh Hóa thuộc loại cốt cán được trọng dụng nhất của
Bộ Công an. Cho nên, không ai có thể đảm bảo rằng lãnh đạo của lực lượng bảo vệ
an ninh mạng sẽ chẳng cùng chủng loại ấy. Là Cục trưởng Cảnh sát
phòng chống tội phạm sử dụng công nghệ cao, mà lại sử dụng công nghệ cao để tổ
chức hoạt động tội phạm. Đó là bằng chứng không thể
chối cãi, cho thấy không thể đảm bảo rằng lực lượng bảo vệ an ninh mạng chỉ toàn
người tử tế, hành động và phán xét theo đúng quy định của Hiến pháp và pháp luật.
Vì vậy, lực lượng ấy không có đủ tư cách nhân danh pháp luật để phán xử người
dân, hạn chế hay tước bỏ quyền công dân.
Có thể tác giả và một số người ủng hộ Luật
an ninh mạng vẫn cố cãi, rằng về nguyên tắc thì trong nhà nước pháp quyền xã hội
chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân, công an nhân dân không thể
xử oan nhân dân. Và nếu có oan sai thì cũng chỉ là tai nạn thường tình, tương tự
như tai nạn giao thông mà thôi. Để đỡ tốn thời gian tranh luận, ta hãy chốt lại
mục này bằng một mẩu chuyện "cận tưởng" sau đây.
Ngày nảy ngày nay, ở chốn "cao hơn gấp vạn lần
so với dân chủ tư sản", có một gia đình nọ chung sống
ba thế hệ. Người ông ngày ngày lên mạng internet, liên lạc khắp nơi để tìm mộ đồng
đội. Người bà cũng gắn bó với mạng, thành kính bổ túc kiến thức tâm linh. Người
bố làm việc cho một công ty nước ngoài, nên đêm đêm phải túc trực bên laptop, để
trao đổi công việc với đại bản doanh ở tận Châu Âu. Người mẹ quanh năm mải mê
kinh doanh bán hàng qua mạng. Cô chị bám rịt lấy Google, tìm kiếm tài liệu để viết
luận văn tốt nghiệp đại học. Còn cậu em trai thì nghiện Facebook, để rồi bị “bọn
xấu” lợi dụng, rủ rê tham gia những trò bị chính quyền cấm đoán, như biểu
tình yêu nước và bảo vệ môi trường. Khốn nỗi nó quá cứng đầu, nên ông bà, bố mẹ
và chị khuyên bảo thế nào cũng chẳng chịu nghe, cứ ý nó nó làm. Đua đòi lên tiếng
chê bai, phản đối Luật đặc khu. Trước đã đành, nhưng khi đã có Luật an ninh mạng
mà vẫn cứ dai dẳng lèo nhèo, nên mới bị cơ quan công an xử lý. Cả nhà lao nhao
xỉ vả: Thấy chưa, nói mãi không nghe, bây giờ thì đáng đời. Trớ trêu thay,
không chỉ nó đáng đời, mà cả nhà đều lâm vào cảnh sống dở chết dở, vì mạng
internet của gia đình bị cắt. Ông bà đeo huân huy chương đầy ngực, dìu nhau đến
trụ sở công an trình bày. Để rồi nhận được câu trả lời lạnh tanh: Theo điểm
h khoản 1 Điều 5 và khoản 7 Điều 16 Luật an ninh mạng, trong trường hợp xử lý
thằng cháu chống chế độ của ông bà, thì phải đình chỉ cung cấp và sử dụng mạng
internet.1 Ông bà tỏ ra
gương mẫu, nhanh nhảu tuyên bố tán thành Luật an ninh mạng, bây giờ áp dụng đúng
Luật an ninh mạng, vậy thì thắc mắc gì nữa?
Thế đó, một đứa vi phạm thì năm người
sống cùng nhà cũng bị cắt mạng internet. Chẳng khác gì một người ăn cắp thì cả gia
đình phải ngồi tù. Nạn bị vạ lây như vậy không chỉ dừng lại trong phạm
vi gia đình, mà còn xảy ra trong phạm vi tập thể hay cộng đồng, nơi sử dụng
chung một mạng viễn thông, một mạng internet, hay một hệ thống thông tin. Chỉ cần
một thành viên bị quy kết vi phạm, dù oan hay không oan, thì cả tập thể hay cộng
đồng ấy cũng đều bị vạ lây. Vì điểm h khoản 1 Điều 5 Luật an ninh mạng quy
định phải "ngăn chặn, yêu cầu tạm ngừng, ngừng cung cấp thông tin mạng;
đình chỉ, tạm đình chỉ các hoạt động thiết lập, cung cấp và sử dụng mạng viễn
thông, mạng internet...". Và điểm l khoản 1 Điều 5 quy định phải "phong
tỏa, hạn chế hoạt động của hệ thống thông tin; đình chỉ, tạm đình chỉ hoặc yêu
cầu ngừng hoạt động của hệ thống thông tin...".
Hy vọng, sau khi đọc thêm hai đoạn vừa rồi,
sẽ chẳng còn mấy ai phủ định tác dụng trừng phạt người vô tội của Luật an
ninh mạng. Vậy là rõ ràng, Luật an ninh mạng vi phạm Điều 3 Hiến pháp
2013: "Nhà nước... công nhận, tôn trọng, bảo vệ và bảo đảm quyền con
người, quyền công dân." Và vi phạm cả Điều 16 Hiến pháp 2013: "Không
ai bị phân biệt đối xử trong đời sống chính trị, dân sự, kinh tế, văn hóa, xã hội."
1.2.
Xâm phạm quyền hiến định
Tạo ra cơ chế phán xét oan sai người vô
tội, hơn nữa còn bắt cả những người không bị buộc
tội cũng phải gánh chịu hình thức trừng phạt cùng với người bị buộc tội, Luật
an ninh mạng vi phạm nghiêm trọng các quyền con người và quyền công dân, đồng
thời vi phạm nhiều điều khoản khác trong Hiến pháp hiện hành. Trong phân
đoạn này, ta sẽ xem xét một số vi phạm đó.
"Yêu cầu xóa bỏ thông tin",
biện pháp ấy đương nhiên vi phạm quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí. "Đình
chỉ các hoạt động thiết lập, cung cấp và sử dụng mạng viễn thông, mạng internet",
"phong tỏa, hạn chế hoạt động của hệ thống thông tin" và
"đình chỉ hoặc yêu cầu ngừng hoạt động của hệ thống thông tin",
các biện pháp ấy đương nhiên cản trở cuộc sống sinh hoạt, học tập và làm việc của
các nạn nhân.
Cần nhấn mạnh rằng: Những người bị buộc
tội và những người bị vạ lây mới chỉ là những nạn nhân trực tiếp. Cùng với họ, cả
xã hội cũng trở thành nạn nhân gián tiếp của Luật an ninh mạng.
Thật vậy, ngăn cản, cấm đoán thông tin
trên mạng không chỉ là trấn áp phía cung cấp thông tin, mà còn gây trở ngại cho
cả phía tiếp nhận thông tin. Trong hoàn cảnh đài báo quốc doanh chỉ được phép
đưa tin theo khẩu vị của thế lực cầm quyền, thì đương nhiên thông tin được cung
cấp rất phiến diện, thậm chí méo mó và chứa nhiều sai lệch. Cho nên, mạng xã
hội là nguồn thông tin bù đắp, cân đối và kiểm chứng vô cùng cần thiết cho mọi
người. Qua đó ta thấy, không chỉ quyền tự do ngôn luận và tự do báo chí, mà
cả quyền tiếp cận thông tin cũng bị xâm phạm. Tức là, Luật an ninh mạng vi
phạm Điều 25 Hiến pháp 2013: "Công dân có quyền tự do ngôn luận, tự do
báo chí, tiếp cận thông tin."
Nếu các công ty, tập đoàn công nghệ
thông tin và viễn thông thỏa hiệp với chính quyền, răm rắp thực hiện mọi yêu cầu
của công an, thì rõ ràng là tệ hại cho người dân. Trường hợp ngược lại, các quy
định vi phạm quyền con người, vi phạm quyền tự do kinh doanh và nguyên tắc kinh
doanh trong Luật an ninh mạng có thể khiến một số công ty, tập đoàn công nghệ
thông tin và viễn thông hàng đầu Thế giới không đầu tư mới vào Việt Nam, hoặc
buộc phải rút khỏi Việt Nam. Khi đó, người Việt Nam sẽ bị hạn chế cơ hội sử dụng
công nghệ cao và tiếp nhận thông tin chất lượng cao. Bi kịch không chỉ dừng ở
đó. Các thế lực công nghệ thông tin và viễn thông từ Trung Quốc sẽ nhanh chóng
thế chỗ, và đó mới là thảm họa đổ lên đầu dân Việt. Thảm họa không chỉ vì phải
tiếp nhận công nghệ thông tin và viễn thông chất lượng thấp hơn, mà ở chỗ nước
Việt sẽ bị phương bắc khống chế toàn diện. Bởi khi nắm giữ và khống chế được
thông tin thì khống chế được tất cả, từ chính trị, kinh tế, đến văn hóa, giáo dục...
Bí mật quốc gia mà nhà cầm quyền Hà Nội giấu kín như mèo sẽ lồ lộ ở Bắc Kinh,
chẳng cần tình báo Hoa Nam phải động chân động tay. Bí mật kinh doanh của các
công ty trong nước và các công ty nước ngoài đầu tư tại Việt Nam sẽ được trao
cho các công ty Trung Quốc, giúp họ dễ dàng lấn át mọi đối thủ, tiếp tục đưa
công nghệ thải loại hủy hoại môi trường phủ kín Việt Nam. Vậy là, không chỉ
người sử dụng internet, người sản xuất, kinh doanh và người tiêu dùng ở Việt
Nam phải chịu nhiều thiệt thòi, mà cả môi trường sống và chủ quyền, an ninh quốc
gia cũng bị đe dọa.
Internet cùng với các công cụ hoạt động trên
mạng đã trở thành tư liệu lao động không thể thay thế. Hơn nữa, internet là môi
trường kinh doanh của nhiều ngành nhiều người. Do đó, bằng cách ngăn cản hay hạn
chế sử dụng internet và các ứng dụng trên đó, Luật an ninh mạng vi phạm Điều
55 Hiến pháp 2013: "Công dân có quyền làm việc, lựa chọn nghề nghiệp,
việc làm và nơi làm việc." Khi bí mật kinh doanh không còn được đảm
bảo, thì cũng chẳng còn bình đẳng và tự do trong kinh doanh. Tức là Luật an
ninh mạng cũng vi phạm Điều 33 Hiến pháp 2013: "Mọi người có quyền tự
do kinh doanh trong những ngành nghề mà pháp luật không cấm."
Internet là trường học siêu đẳng cho mọi
tầng lớp, là thư viện vô biên cho những người đam mê tìm hiểu, nghiên cứu, và là
môi trường văn hóa hết sức đa dạng, mà người nghèo cũng có thể dễ dàng tiếp cận.
Vì vậy, với việc hạn chế sử dụng internet, Luật an ninh mạng vi phạm Điều 39
Hiến pháp 2013: "Công dân có quyền và
nghĩa vụ học tập."
Đồng thời vi phạm Điều 40: "Mọi người có quyền nghiên
cứu khoa học và công nghệ, sáng tạo văn học, nghệ thuật và thụ hưởng lợi ích từ
các hoạt động đó." Và vi phạm cả Điều 41: "Mọi
người có quyền hưởng thụ và tiếp cận các giá trị văn hoá, tham gia vào đời sống
văn hóa, sử dụng các cơ sở văn hóa."
Internet còn là môi trường tín ngưỡng,
nơi người người có thể tìm hiểu và bổ túc kiến thức tâm linh, có thể giao lưu,
trao đổi và chia sẻ. Hạn chế môi trường tín ngưỡng ấy là một trong những tác hại
của Luật an ninh mạng. Hơn thế nữa, khi danh sách đen Hà Nội phối hợp tác chiến
với danh sách đen Bắc Kinh, sẽ gia tăng các xu hướng và tổ chức tín ngưỡng bị kỳ
thị. Lúc đó, không chỉ Giáo phái Làng Mai, mà cộng đồng Pháp Luân Công cũng thêm
phần chật vật. Dưới hình thức ấy, Luật an ninh mạng vi phạm Điều 24 Hiến
pháp 2013, quy định "mọi người có quyền
tự do tín ngưỡng, tôn giáo", "Nhà nước tôn trọng và bảo hộ quyền tự do tín ngưỡng, tôn
giáo", và "không ai được
xâm phạm tự do tín ngưỡng, tôn giáo".
Internet là nơi những phận đời bị vùi dập,
bị cướp bóc có thể kêu than. Đối diện với bộ máy chuyên chính cực kỳ hà khắc,
chẳng mấy người dân dám lên tiếng phê phán, và cũng chẳng mơ tưởng hão huyền về
tác dụng của những lời ta thán. Song, theo bản năng tự nhiên, khi bị hành hạ
quá mức thì cũng rên lên mấy tiếng, để át đi cảm giác đau đớn, để biết mình còn
sống, và để san sẻ với đồng loại cho bớt nỗi cô đơn. Vậy mà cũng không được chấp
nhận, lại còn bị gán cho tội nói xấu chế độ. Trớ trêu thay, đối với một chế độ
có quá nhiều cái xấu, thì chỉ nói một phần nhỏ sự thật cũng đủ để bị khép vào tội
nói xấu chế độ. Còn biết làm gì khác, khi nộp đơn khiếu kiện ở địa phương thì bị
phớt lờ từ năm này qua năm khác, nộp đơn lên cơ quan trung ương thì lại bị trả
về địa phương, với lý do không được khiếu kiện vượt cấp. Thử hỏi, nếu không có
tiếng kêu than và lời tố cáo trên internet, thì nỗi thống khổ của đồng bào Thủ
Thiêm sẽ còn bị các cấp cầm quyền phớt lờ đến bao giờ? Cho nên, internet trở
thành nơi đánh trống trước chốn công đường. Bịt cửa internet cũng là bịt cửa chốn
công đường. Xét từ góc độ này, Luật an ninh mạng vi phạm Điều 30 Hiến
pháp 2013: "Mọi người có quyền khiếu
nại, tố cáo với cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền về những việc làm trái
pháp luật của cơ quan, tổ chức, cá nhân."
Là phương tiện để giới cầm quyền, đặc biệt
là thành phần tham nhũng, dập tắt các ý kiến phê phán và tố cáo, Luật an
ninh mạng vi phạm Điều 28 Hiến
pháp 2013: "Công
dân có quyền tham gia quản lý nhà nước và xã hội, tham gia thảo luận và kiến
nghị với cơ quan nhà nước về các vấn đề của cơ sở, địa phương và cả nước."
Đồng thời vi phạm cả Điều 8: "Các cơ quan nhà nước, cán bộ, công
chức, viên chức phải tôn trọng Nhân dân, … lắng nghe ý kiến và chịu sự giám sát
của Nhân dân; kiên quyết đấu tranh chống tham nhũng…".
1.3.
Hệ lụy quốc tế
Tháng 8/2017, Đại sứ Hợp
chúng quốc Hoa Kỳ, Đại sứ Úc, Đại sứ Canada, Trưởng phái đoàn Liên minh Châu Âu
và Đại sứ quán các nước thành viên tại Việt Nam đã gửi thư đến Chủ tịch Quốc hội,
bày tỏ sự quan ngại về yêu cầu đặt cơ quan đại diện, máy chủ quản lý dữ liệu
người sử dụng Việt Nam trên lãnh thổ Việt Nam. Theo họ, đòi hỏi ấy trái với cam
kết thương mại quốc tế của Việt Nam, trong đó có cam kết với tư cách thành viên
WTO. Luật an ninh mạng đã bỏ yêu cầu về máy chủ,
nhưng vẫn đòi hỏi "phải lưu trữ dữ liệu tại Việt Nam" và "phải
đặt chi nhánh hoặc văn phòng đại diện tại Việt Nam" (khoản 3 Điều 26).
Ngày 14/06/2018, Văn
phòng Nhân quyền Liên Hiệp Quốc tại Đông Nam Á bày tỏ sự quan ngại về việc Quốc
hội Việt Nam thông qua Luật an ninh mạng, có một số điều khoản trái ngược với
các cam kết mà Việt Nam đã ký khi tham gia Công ước Quốc tế về các Quyền Dân sự
và Chính trị (ICCPR).
Những đánh giá như vậy không chỉ đến từ
các tổ chức nước ngoài, mà đã được nhiều tổ chức và cá nhân
trong nước cảnh báo từ trước, và đã được một số đại biểu trình
bày trước Quốc hội trong quá trình thảo luận dự thảo Luật an ninh mạng.
Nhìn từ góc độ này, Luật an ninh mạng
đã vi phạm Điều 12 Hiến pháp
2013: "Nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam… tuân thủ Hiến
chương Liên hợp quốc và điều ước quốc tế mà Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam
là thành viên."
Song đó chưa phải là điều đáng nói nhất. Vẫn còn những thứ
tiềm ẩn trong Luật an ninh mạng, mà hậu quả của chúng thì khó lường hết được. Để
có thể mường tượng đôi chút, hãy cùng nhau xét thêm một ví dụ, trước khi kết
thúc phần này.
Điểm
d khoản 2 Điều 22 Luật an ninh mạng viết:
"Chủ
động tấn công vô hiệu hóa mục tiêu trên không gian mạng nhằm bảo vệ an ninh quốc gia và bảo đảm trật tự, an toàn
xã hội."
Điều 2 Luật an ninh mạng quy ước:
"3. Không
gian mạng là mạng
lưới kết nối của cơ sở hạ tầng công nghệ thông tin, bao gồm mạng viễn thông,
mạng internet, mạng máy tính, hệ thống xử lý và điều khiển thông tin, cơ sở dữ
liệu; là nơi con người thực hiện các hành vi xã hội không
bị giới hạn bởi không gian và thời gian."
"4. Không
gian mạng quốc gia là không gian mạng do Chính phủ xác lập, quản lý và kiểm
soát."
Khi đã
phân biệt rạch ròi như vậy, mà điểm d khoản 2 Điều 22 Luật an ninh mạng chỉ viết "không
gian mạng" chung chung, chứ không viết "không gian mạng quốc
gia", thì rõ ràng là Luật
an ninh mạng cho phép, thậm chí yêu cầu lực lượng an ninh mạng chủ động tấn
công mục tiêu trên không gian mạng "không
bị giới hạn bởi không gian", tức
là trên toàn cầu, cả bên ngoài không gian mạng quốc gia. Thuật ngữ "toàn cầu" hoàn toàn khớp với
thuật ngữ "tấn công", vì nếu "mục tiêu" thuộc
vào "không gian mạng quốc gia" thì lực lượng an ninh mạng chỉ
cần gửi một công văn, thậm chí chỉ cần gọi một cú điện thoại, đã đủ để "vô
hiệu hóa mục tiêu", và không ai gọi hành động gửi công văn hay gọi điện
thoại là "tấn công" cả.
"Chủ động" có nghĩa là tự mình quyết định hành động, không bị chi
phối bởi người khác hoặc hoàn cảnh bên ngoài. Và "chủ
động tấn công"
có nghĩa là tự mình quyết định tấn công, không bị
chi phối bởi đối phương và hoàn cảnh, tức là tấn công trước khi đối phương có
biểu hiện tấn công mình, thậm chí tấn công cả khi mới có nghi ngờ, chứ chưa chắc
chắn là đối phương thực sự có ý định chống lại mình. "Chủ động tấn công" là cách nói của phía
tấn công, còn đối với phía bị tấn công thì
hành vi ấy được gọi là "vô cớ tấn công".
Hãy tưởng tượng xem điều gì sẽ xảy ra, nếu
lực lượng an ninh mạng của Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam chủ động tấn công
các mục tiêu trên không gian mạng thuộc Hợp chúng quốc Hoa Kỳ, Vương quốc Anh,
Cộng hòa Liên bang Đức, Cộng hòa Pháp, Nhật Bản? Lúc đó, Quốc hội chớ tỏ ra ngô
nghê vô tội, sau khi đã giao cho đám kiêu binh nhiệm vụ và quyền hạn chủ động tấn
công...
Hành vi ấy hiển nhiên vi phạm chủ quyền
của các nước bị tấn công, tức là vi phạm nguyên tắc quan hệ quốc tế "tôn
trọng độc lập, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ, không can thiệp vào công việc nội
bộ của nhau", được hiến định tại Điều 12 Hiến pháp 2013.
Giao cho lực lượng an ninh mạng - một cơ
quan chỉ ở cấp Cục của Bộ công an - trách nhiệm và quyền hạn chủ động tấn công
các mục tiêu trên không gian mạng thuộc các quốc gia khác, hành động có thể dẫn
đến chiến tranh mạng giữa Việt Nam và quốc gia bị tấn công, Luật an ninh mạng
vi phạm Điều 70 (khoản 13) và Điều 74 (khoản 9) của Hiến pháp 2013, quy định
rằng chỉ Quốc hội và Ủy ban thường vụ Quốc hội mới có quyền hạn quyết định vấn
đề chiến tranh.
Pháp luật Việt Nam chưa cho phép, mà đã tấn công vào Thủ đô
Berlin của CHLB Đức để bắt cóc Trịnh Xuân Thanh, gây ra những hậu quả cực kỳ
nghiêm trọng, tệ hại gấp ngàn lần so với những thiệt hại mà Trịnh Xuân Thanh đã
từng gây ra. Bây giờ, khi Luật an ninh mạng đã cho phép
lực lượng an ninh mạng "chủ động tấn công vô hiệu hóa mục tiêu trên không
gian mạng", thì hậu quả còn tệ hại gấp bội. Nhìn từ góc độ này, có thể
coi điểm
d khoản 2 Điều 22 là một trong những thứ vi hiến nghiêm trọng nhất của Luật an
ninh mạng.
Mới ngó qua
Điều 5, Điều 16 và Điều 22 của Luật an ninh mạng mà đã nhận ra chúng vi
phạm 18 điều của của Hiến pháp 2013, đó là Điều
3, Điều 8, Điều 12, Điều 16, Điều 24, Điều 25, Điều 28, Điều 30, Điều 31, Điều
33, Điều 39, Điều 40, Điều 41, Điều 55, Điều 70, Điều 74, Điều 102 và Điều 107.
Thử hỏi, xét về thành tích
vi hiến, có luật nào địch nổi Luật an ninh mạng hay không?
Tự ban hành luật cho phép bản
thân bất chấp tất cả, kể cả Hiến pháp do chính họ nặn ra, để làm mọi điều họ muốn
- đó là kiểu tư duy pháp quyền
ngang ngược đặc trưng của thế lực độc quyền
cai trị.
2. Hệ quả vi hiến
"Cần luật này bảo vệ
chế độ này, không để muốn nói gì thì nói, muốn chửi ai thì chửi."
Vẫn với lối nói dân dã mà đúng chủ
ý từng từ từng chữ, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đã thể hiện rõ ràng lối tư duy
và bản quyền của tác giả, đồng thời thâu tóm cực kỳ ngắn gọn dụng ý và chủ đề của
tác phẩm.
"Không để muốn nói gì
thì nói" có nghĩa là không chấp nhận tự do
ngôn luận. Đơn giản là như vậy. Vi phạm quyền tự do ngôn luận đã được hiến
định ư? Hãy đọc lại cho kỹ! Điều 25 Hiến pháp 2013 quy định: "Công dân
có quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí, tiếp cận thông tin, hội họp, lập hội,
biểu tình." Đúng! Nhưng đó mới chỉ là vế đầu, còn vế sau của Điều 25 là: "Việc
thực hiện các quyền này do pháp luật quy định." Mà đến bây giờ ta vẫn
cương quyết chưa cho ban hành "pháp luật quy định việc thực hiện các
quyền này". Vì vậy các ngươi vẫn chưa được thực hiện,
hiểu chưa? Không hiểu cái phát minh thâm thúy mới mẻ ấy của đấng cầm quyền mà lại
nói liều, thì phạm tội vu khống, xúc phạm rồi đó.
"Không để muốn
chửi ai thì chửi" có nghĩa là dù đáng chửi
cũng không được chửi thế lực cầm quyền và "đồng chí tốt" của họ.
Đặc biệt, những người dân bị cướp đất, bị hành hạ càng không được kêu, không được
chửi, vì như vậy là "chống người thi hành công vụ", "phá
rối an ninh, gây rối trật tự công cộng" và "phỉ báng chính quyền
nhân dân". (Bị đánh mà không được kêu, thì dưới đáy mọi tầng nhân đạo.)
Cho nên, gọi là an ninh nhưng không phải
là an ninh xã hội, không phải là an ninh Tổ quốc, mà chỉ là an ninh của chế độ,
và nói cho cùng thì cũng chỉ nhằm bảo vệ sự bình an của thế lực cầm quyền.
2.1.
Bên mất
Luật an ninh mạng
được ban hành để đối phó với dư luận ngày càng bức xúc, căm phẫn. Một
trong những bước nhảy mới mẻ được thể hiện trong đó, là chiến thuật ứng xử của
đấng cầm quyền được cải tiến từ tự bịt tai mình sang bịt miệng thiên hạ. Có
điều, thiên hạ thì bao la, nên để bịt được miệng thì phải huy động tấm dẻ khổng
lồ, khiến muôn dân khó thở. Khó thở đến mức người dân bị hạn chế cả môi trường
lẫn phương tiện để học tập, nghiên cứu khoa học và công nghệ, để làm việc và kinh
doanh, để hưởng thụ và tiếp cận các giá trị văn hoá, để trau dồi và thực hành
tín ngưỡng, để thực hiện quyền khiếu nại, tố cáo và kiến nghị với cơ quan nhà
nước... (như đã đề cập trong mục 1.2).
Nếu nói rằng người dân chỉ mất chứ chẳng
được gì, thì có thể bị nhắc nhở, rằng việc cấm thông tin trên không gian mạng
có nội dung làm nhục, vu khống (khoản 3 Điều 16 Luật an ninh mạng) có tác dụng
bảo vệ tất cả mọi người, kể cả người dân. Có thể tin nổi không?
Gây bức xúc, khiến người dân phải lên tiếng,
rồi lại xúc phạm họ là nhẹ dạ cả tin, nên bị kẻ xấu lợi dụng. Gây phẫn nộ, khiến
người dân phải xuống đường biểu tình, rồi lại vu khống họ hám tiền, nên bị thế
lực phản động kích động. Thử hỏi, có bao giờ cái bộ máy cầm quyền thường huy động
đài báo ra rả xúc phạm và vu khống người dân như vậy, lại áp dụng Luật an ninh
mạng để bảo vệ người dân khỏi bị làm nhục và vu khống hay không?
Có một điều tưởng chừng như nghịch lý: Những
người bị gán cho nhãn hiệu chống chính quyền - mục tiêu chính của Luật an ninh
mạng - chưa chắc là thành phần phải chịu thiệt hại nhiều nhất. Vì sao? Đơn
giản vì chuyện tù đày được quyết định bởi Bộ luật hình sự, chứ không phải bởi
Luật an ninh mạng. Buộc phải xóa thông tin ư? Thông tin của họ được đặt ở nước
ngoài, nơi mà lực lượng an ninh mạng Việt Nam không thể ra lệnh cho chủ trang mạng
phải xóa. Cản trở bạn đọc trong nước tiếp cận thông tin bằng cách dựng rào chắn
ư? Trò ấy quá cũ rồi. Hơn nữa, Luật an ninh mạng chỉ kích thích thêm nhiều người
học cách vượt rào để đọc thông tin cấm kỵ mà thôi. Cắt mạng internet ư? Biện
pháp ấy đã được áp dụng từ lâu rồi, chẳng phải đợi đến ngày đẻ ra Luật an ninh
mạng. Thậm chí, khi điều đó đã được viết rành rành trong luật, thì nạn nhân đỡ
phải mất công tố cáo. Chứ trước đây, nếu kể ra thì một người tin lại có chín
người ngờ, bởi cho rằng chẳng đời nào chính quyền lại chơi trò hạ đẳng như vậy.
Chịu thiệt hại nhiều nhất chính là Dân tộc
Việt Nam, bởi vì Luật an ninh mạng cản trở sự phát
triển của Đất nước.
2.2.
Bên được
Khi bất chấp mọi can ngăn, phản đối của
dư luận để thông qua bằng được một dự luật chứa đựng nhiều điều sai trái, thì rõ
ràng luật ấy chỉ nhằm để bảo vệ quyền lợi của giới cầm quyền. Cái giới ấy
đa dạng, nhưng có thể phân thành một số tập hợp, trong đó một phần tử có thể đồng
thời thuộc vào mấy tập hợp khác nhau. Sau đây ta điểm danh năm tập hợp cầm
quyền thuộc bên được lợi khi ban hành Luật an ninh mạng.
Tập hợp thứ nhất gồm các quan chức chỉ chấp
nhận dân ngoan. Kêu ca, thắc mắc, nói năng trái định hướng…
là hỗn, không ngoan. Đối với tập hợp này, Luật an ninh mạng là công cụ pháp lý
đắc lực để hạn chế hay dập tắt các ý kiến trái chiều của đám dân không ngoan.
Tập hợp thứ hai theo đuổi học thuyết "ngu
để trị". Bản thân một số vị không đến nỗi ngu,
nhưng dân ngu thì vẫn dễ trị hơn. Còn đa số phần tử thuộc tập hợp này thì có tầm
trí tuệ, hiểu biết chỉ đủ để cai trị khi dân đủ dốt. Chẳng hạn, cỡ chuyên gia "Gu gờ và Túp Pê tê
bóc" thì có thể đảm đương chức vụ
Chủ nhiệm Ủy ban Quốc phòng và An ninh của Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ
nghĩa Việt Nam, nhưng không đủ tầm để có thể hiểu và thông cảm với cộng đồng
tham gia mạng xã hội, mà theo ngôn ngữ chính trường thì đó là hiện tượng "tụ
tập đông người trái pháp luật" trên mạng. Thành thử, họ coi việc tự do
sử dụng internet - cách tốt nhất để người dân mở rộng và nâng cao kiến thức -
là nguy cơ đe dọa sự tồn vong của chế độ. Và họ muốn ban hành Luật an ninh mạng
để hạn chế nguy cơ đó.
Tập hợp thứ ba là thế lực căm ghét lý tưởng
dân chủ và quyền con người. Họ thống lĩnh giới cầm quyền,
nên thừa sức phủ định quyền con người suốt mấy chục năm ròng rã. Và ngay cả khi
đã chấp nhận hiến định quyền con người, thì thế lực đó vẫn ngăn cản thực thi,
và tiếp tục ngang nhiên chà đạp lên quyền con người. Một mặt, họ cương quyết
ngăn cản sự ra đời của các luật cần thiết để đảm bảo việc thực hiện các quyền tự
do hội họp, lập hội và biểu tình. Mặt khác, họ ban hành Luật an ninh mạng, nhằm
hạn chế hoặc tước bỏ quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí và tiếp cận thông
tin.
Tập hợp thứ tư là thế lực "ăn
cơm nhà vác tù và phương bắc". Với
Luật an ninh mạng, họ có được vũ khí pháp lý để ngăn chặn các luồng thông tin phản
đối thế lực bành trướng phương bắc, cản trở các kế hoạch đem lại đặc quyền đặc
lợi cho "đồng chí tốt" của họ.
Điều khiến phường "cõng rắn"
hài lòng nhất có lẽ là lùa được loại thông tin "chia rẽ, gây thù hận
giữa các dân tộc... và nhân dân các nước" vào nhóm "Thông tin
trên không gian mạng có nội dung tuyên truyền chống Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ
nghĩa Việt Nam" (tại điểm b khoản 1 Điều 16 Luật an ninh mạng).2 Nhờ thế, có thể xử lý hành vi phản đối
thế lực bành trướng phương bắc nặng như tội "tuyên truyền chống Nhà nước
Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam". Đó hẳn là một thành tựu mang
tính đột phá, bởi tội "tuyên truyền chống Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ
nghĩa Việt Nam" được quy định trong Bộ luật hình sự 1999
(Điều 88) và Bộ luật hình sự 2015
(Điều 117) không hề bao gồm cái nội dung có tác dụng "bảo Trung" như
vậy. Phải chăng điều đó đã đủ để cho thấy, cái nhà nước mà họ hết lòng phụng sự
và quyết tâm bảo vệ đóng đô ở đâu?
Rồi đây, họ sẽ tận dụng Luật an ninh mạng
để yểm hộ cho Luật đặc khu được thông qua, sớm chào đón "công dân của nước
láng giềng có chung đường biên giới với Việt Nam tại tỉnh Quảng Ninh"
đến định cư lập nghiệp. Hơn nữa, nếu các công ty, tập đoàn hàng đầu Thế giới trong
lĩnh vực công nghệ thông tin và truyền thông buộc phải rời khỏi Việt Nam, thì giải
phóng được mặt bằng, để tha hồ "dọn tổ đón phượng
hoàng" bay đến từ phương bắc xã hội chủ nghĩa.
Lợi đủ đường như vậy, trên dưới không hài lòng sao được.
Tập hợp thứ năm là thành phần tham
nhũng. Tập hợp này đông đảo nhất, chen chúc trong bộ
máy cầm quyền. Họ chẳng sợ đám thanh tra, kiểm tra tốn tiền mà vô dụng, đến mức
trong tổng số 34.340 người
thuộc diện phải kê khai tài sản và thu nhập theo quy định của thành phố Hà Nội
thì chỉ kết luận được một trường hợp không trung thực trong kê khai tài sản,
thu nhập. Đám ấy chẳng điếc, cũng chẳng mù, nhưng thường
tỏ ra câm, vì không dám nói khi cấp trên chưa cho nói. Dàn báo chí quốc doanh thì
chỉ được lên tiếng khi nhạc trưởng cho phép. Hiển nhiên, nhạc trưởng không bao
giờ cho phép động đến bản thân nhạc trưởng. Và nếu chưa nhận được lệnh tấn công
từ đấng tối cao thì cũng không thể động đến hạng tham nhũng ngang tầm hay trên
tầm nhạc trưởng. Thành thử, nếu người nào đó trong bộ máy cầm quyền muốn tố
cáo tham nhũng, thì cũng phải tung tin nặc danh lên mạng xã hội. Đó là một
trong những lý do khiến mạng xã hội đóng vai trò tiên phong, không thể thay
thế trong cuộc đấu tranh chống lại quốc nạn tham nhũng. Vì thế, khi mạng
xã hội bị khống chế bịt miệng, thì được hưởng lợi nhiều nhất chính là cộng đồng
tham nhũng. Nói cách khác, một trong những tác dụng lớn nhất của Luật an
ninh mạng là bảo vệ tham nhũng. Vậy là, khi tham nhũng là đặc điểm đặc
trưng của chế độ, thì có thể nhân danh bảo vệ chế độ để bảo vệ tham nhũng.
Điểm giống nhau giữa thế lực "ăn
cơm nhà vác tù và phương bắc" và thành phần tham nhũng là đều ghét
nhất, sợ nhất các thông tin tố cáo trên mạng xã hội và các cuộc biểu tình phản
đối. Vì thế, họ đều muốn ban hành Luật an ninh mạng, đồng thời tìm mọi
cách để cản trở việc ban hành Luật biểu tình. Cho nên, mức độ ủng hộ Luật
an ninh mạng và phản đối Luật biểu tình cũng phản ánh cả mức độ yêu nước và thực
tâm chống tham nhũng.
3. Mấy điều chốt lại
Để biện hộ cho việc ban hành Luật an
ninh mạng, Tờ trình số 366/TTr-CP về
Dự án Luật an ninh mạng của Chính phủ gửi Quốc hội (ngày 31/08/2017)
viết rằng “hiện đã có nhiều quốc
gia trên thế giới ban hành các văn bản luật về an ninh mạng”.
Rồi nêu đích danh mấy văn bản pháp luật của Nhật, Trung Quốc, Cộng hòa Séc, Hàn
Quốc, Mỹ và Cộng đồng Châu Âu làm ví dụ “điển hình”. Và khẳng định rằng:
“Việc xây dựng, ban hành
Luật an ninh mạng sẽ bảo đảm công tác an ninh mạng của nước ta có sự phù hợp nhất
định với thông lệ quốc tế và bảo đảm các điều kiện hội nhập quốc tế về an ninh
mạng.”
Ngoài ra, hai luật IT-Sicherheitsgesetz
và NetzDG -
Netzwerkdurchsetzungsgesetz của Đức cũng hay được trích
dẫn trên đài báo lề đảng, như thể chúng là luật an ninh mạng mà mọi người “cần
biết”.
Đặc biệt, đích thân Chủ tịch nước Trần Đại
cũng tham gia chiến dịch, khi tuyên bố trước cử tri rằng “138 quốc gia (trong đó
có 95 nước đang phát triển) đã ban hành Luật an ninh mạng”.
Tệ thay, các thông tin mà họ tung ra
đều là ngụy tạo 100%, như đã chỉ ra trong hai bài “Luật an ninh mạng - Tượng
đài... cô đơn” và “Luật an ninh mạng -
Cán cân... cong lý”. Vâng,
tất cả các luật được họ viện dẫn đều không phải là luật an ninh mạng. Chẳng
tìm nổi một ví dụ đích thực để minh họa cho cái gọi là “thông lệ quốc tế… về
an ninh mạng”, họ đã “vơ bèo vạt tép”, túm lấy văn bản luật của một
số nước về an toàn mạng (với vai trò tương tự như Luật an toàn thông tin mạng
số 86/2015/QH13 của Việt Nam), và cả những thứ không hề
dính dán đến an toàn mạng hay an ninh mạng, rồi gán cho chúng cái nhãn luật an
ninh mạng, để mê hoặc bao người...
Hành vi khuất tất ấy thể hiện một ý đồ
khuất tất, mà kết cục là đẻ ra Luật an ninh mạng số
24/2018/QH14. Với cái luật chứa đựng những nội dung vi hiến
có thể gây ra nhiều hậu quả nghiêm trọng, như đã trình bày trong hai phần 1 và
2 của bài viết này, thì càng an ninh mạng (theo khẩu vị cầm quyền) dân
càng bất an mà thôi.
Ấy
vậy mà Chủ tịch Quốc hội Nguyễn Thị Kim Ngân vẫn thản nhiên đòi hỏi:
"Quốc hội kêu gọi đồng
bào, nhân dân cả nước hãy bình tĩnh và tin tưởng vào những sự quyết định của
Đảng, Nhà nước, và đặc biệt là những dự án luật mà Quốc hội đang thảo luận..."
Nhân dân cả nước phải "bình tĩnh
và tin tưởng" đến bao giờ nữa? Chẳng lẽ bà đòi hỏi muôn dân phải bất
chấp thực tế, tiếp tục nhắm mắt trao lòng tin khống,
để Quốc hội của bà ban hành những thứ như Luật an ninh mạng, trao cho
lực lượng an ninh bản án khống, có thể tùy ý
chụp lên đầu người dân vô tội hay sao? Phải chăng, bà quan niệm đó là cái giá cần
trả khi "cần luật này để bảo
vệ chế độ này"?
Nhưng Luật an ninh mạng không bảo vệ
được chế độ này, mà ngược lại, sẽ làm hại chế độ này. Bởi chế độ chỉ
có thể bền vững nếu được lòng dân. Áp bức và chẹn họng người dân chỉ khiến muôn
dân thêm uất ức. Vừa dung túng tham nhũng và che chắn cho phường "cõng
rắn", vừa xâm phạm thô bạo quyền con người, Luật an ninh mạng thúc
đẩy nhanh quá trình tinh luyện nhiên liệu nguyên tử từ lòng phẫn nộ của muôn
dân, khiến khối nhiên liệu nguyên tử đang chồng chất trong xã hội càng sớm
đạt khối lượng tới hạn. Để rồi, khi phản ứng dây chuyền diễn ra thì chẳng
thế lực nào ngăn cản nổi, sẽ nổ tung cả chế độ trong chớp nhoáng.
Lẽ ra, trước khi biểu quyết Luật an ninh
mạng, họ còn định thông qua Luật đặc khu
(tức Luật Đơn vị hành chính -
kinh tế đặc biệt Vân Đồn, Bắc Vân Phong, Phú Quốc) tại
kỳ họp thứ 5 của Quốc hội khoá XIV. Chủ tịch Quốc hội Nguyễn
Thị Kim Ngây đã khẳng định: “Bộ Chính trị đã kết luận rồi, dự thảo luật
không trái Hiến pháp, phải bàn để ra luật chứ không không thể không ra luật.”
Song tiếc thay, có lẽ vì quá tự phụ và quen thói coi thường Nhân dân, nên họ đã
nhầm to...
“Cá nhân tôi hoàn
toàn không đồng ý với việc thành lập 3 đặc khu và cho thuê đất 99
năm… Không biết ai đưa ra ý tưởng như vậy, kể cả những người đồng
ý thì đều là những kẻ bán nước." Lão
thành cách mạng, Ủy viên dự khuyết Ban Chấp hành Trung ương Đảng Lao động Việt
Nam 1960 - 1976, Đại sứ đặc mệnh toàn quyền Việt Nam tại Trung Quốc 1974 - 1987,
Thiếu tướng Quân đội Nhân dân Việt Nam Nguyễn Trọng Vĩnh đã tuyên bố như vậy.
Cũng bất bình như Cụ Nguyễn Trọng Vĩnh, một
số người cho rằng Luật an ninh mạng và Luật đặc khu là thành quả hợp lực của
tham nhũng và bán nước, và cặp đôi tai quái ấy kết hợp lại thành lời
tuyên chiến với Nhân dân.
Trước phản ứng dữ dội chưa từng thấy đến
từ mọi tầng lớp Nhân dân, thế lực cầm quyền buộc phải quyết định lùi thời gian thông qua
Luật đặc khu. Để thông qua nó, có thể cái thời hạn cho
thuê đất 99 năm sẽ được giảm xuống còn 70 năm. Nhưng nhiều tiếng thét đã vang
lên trên các ngả đường Tổ quốc vào ngày 10/06/2018: Một ngày cũng không!
"Dân ta có một lòng
nồng nàn yêu nước. Đó là một truyền thống quý báu của ta. Từ xưa đến nay, mỗi
khi Tổ quốc bị xâm lăng, thì tinh thần ấy lại sôi nổi, nó kết thành một làn
sóng vô cùng mạnh mẽ, to lớn, nó lướt qua mọi sự nguy hiểm, khó khăn, nó nhấn
chìm tất cả lũ bán nước và lũ cướp nước." 3
Vì vậy, nếu
muốn duy trì chế độ thì đừng để Luật đặc khu trở thành luật cuối cùng của chế độ.4
* * *
Ghi
chú
1 Luật an ninh mạng không viết rõ "đình
chỉ... sử dụng mạng viễn thông, mạng internet" của
ai, nhưng rõ ràng là không thể làm điều đó với Facebook, mà chỉ có thể áp dụng
đối với người sử dụng Facebook.
2 Luật an ninh mạng liệt
kê thông tin "xúc phạm... vĩ nhân, lãnh tụ, danh nhân, anh hùng dân tộc"
trong danh sách phải phòng ngừa, xử lý. Có lẽ đây là lần đầu tiên các vị ấy được
pháp luật Việt Nam bảo vệ đích danh, vì họ không hề được nhắc đến trong Bộ luật hình sự hiện
hành. Và đây cũng là một ví dụ điển hình cho đặc
tính vu vơ, tùy tiện của Luật an ninh mạng, vì chẳng có cơ sở pháp lý nào để xác
định các vị ấy gồm những ai để mà áp dụng. Tất nhiên, khi Luật an ninh mạng viết
chung chung "vĩ nhân", "lãnh tụ",
"danh nhân" và "anh hùng dân tộc", thì không thể
vin vào quốc tịch hay đảng tịch để phân biệt đối xử, rồi gạt các vị như lãnh tụ Mác, lãnh tụ Ăng-ghen,
lãnh tụ Lê-nin...
ra khỏi vòng cấm được xúc phạm. Nhìn sang "láng giềng tốt", thấy
Mao Chủ tịch đã đành, nhưng còn Đặng Chủ nhiệm (Ủy ban Cố vấn Trung ương
Đảng Cộng sản Trung Quốc) thì sao? Đọc tiêu đề bài "Lãnh tụ Đặng Tiểu
Bình lên phim" trên báo Người lao
động, ta hiểu Đặng Tiểu Bình là lãnh tụ, không chỉ
đối với dân Trung Hoa, mà với cả một số người sống trên đất Việt. Đọc "Ba vĩ nhân Trung
Quốc của Thế kỷ XX" (2009, 455 trang), ta thấy Nhà xuất bản Chính trị
Quốc gia Sự thật (Cơ quan
xuất bản chính trị của Đảng Cộng sản và Nhà nước Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt
Nam) cũng coi Đặng Tiểu Bình là vĩ nhân. Đọc "Đặng
Tiểu Bình - một trí tuệ siêu việt", được xuất bản bởi Nhà xuất bản Lao động (2008,
2010,
2015)
và Nhà xuất bản Văn hóa -
Thông tin (2203), không thể phủ nhận Đặng Tiểu Bình là một
danh nhân. Chưa hết, Đặng Tiểu Bình là một trong 13 vị được vinh danh trong bài
"Những anh hùng dân
tộc châu Á từng được Time giới thiệu" đăng trên báo Dân trí. (Mà
quý hiếm đến mức, Việt Nam chỉ có Đại tướng Võ Nguyên Giáp được đưa vào danh
sách đó). Tóm lại, xét cả bốn phương diện "vĩ nhân",
"lãnh tụ", "danh nhân" và "anh hùng dân
tộc" thì Đặng Tiểu Bình đều là yếu nhân đặc biệt, được Luật an ninh mạng
của CHXHCN Việt Nam bảo vệ, tuyệt đối không được xúc phạm. Thành thử, nếu ai đó
không kiềm chế khi nhắc đến vai trò của Đặng Tiểu Bình trong cuộc chiến tranh
biên giới phía bắc, thì có thể bị xử lý theo Luật an ninh mạng Việt Nam, vì tội
"xúc phạm... vĩ nhân, lãnh tụ, danh nhân, anh hùng dân tộc".
Hơn nữa còn đau ở chỗ, lên án kẻ phát động chiến tranh xâm lược Việt Nam mà lại
bị pháp luật Việt Nam kết tội "tuyên truyền chống Nhà nước Cộng hòa xã
hội chủ nghĩa Việt Nam". Không tin ư? Vậy hãy đọc Luật an ninh mạng
cho kỹ. Trong đó, loại thông tin "xúc phạm... vĩ nhân, lãnh tụ, danh
nhân, anh hùng dân tộc" được xếp vào điểm c của khoản 1 Điều 16, mà
khoản 1 Điều 16 thì được dành riêng cho nhóm "Thông tin trên không gian
mạng có nội dung tuyên truyền chống Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt
Nam". Ngạc nhiên chưa? Thế mới biết Quốc hội "sáng suốt"
nhường nào.
3 Đừng vội quy kết là luận điệu kích động
của phần tử phá hoại
hay thế lực thù địch,
vì đó là lời Hồ Chí Minh.
4 Hơn 20 năm trước, một
cựu đảng viên ĐCSVN hỏi tôi: "Theo anh thì chế độ này còn tồn tại được
mấy năm nữa?" Tôi trả lời: "Có thể cũng lâu như thời gian cầm
quyền của cộng sản Nga." Anh ấy lắc đầu, không tin có thể lâu đến thế.
Thực tế thì cũng lâu như thế thật. Những người cộng sản Nga cầm quyền từ ngày 07/11/1917
(ngày xảy ra Cách mạng Tháng Mười Nga) đến trước ngày 29/08/1991 (ngày Đảng Cộng
sản Liên Xô bị Xô viết Tối cao Liên Xô cấm hoạt động trên toàn bộ lãnh thổ Liên
Xô), tức là chưa đến 73 năm 9 tháng 22 ngày. Tính từ ngày 19/08/1945 (ngày
cướp chính quyền tại Hà Nội) đến kỳ họp thứ 6 của Quốc hội khóa XIV (vốn dự định sẽ thông qua Luật
đặc khu) cũng hơn 73 năm…
Ngày 12/10/2018
Cùng
tác giả:
Luật an ninh mạng - Cán
cân... cong lý
Luật an ninh mạng - Tượng
đài... cô đơn
Một số điều cần trao đổi
nhân vụ Trịnh Xuân Thanh
Mấy ý kiến trao đổi về
tiêu chuẩn bổ nhiệm chức danh giáo sư
Bầu cử kiểu gì khi tệ
ngay từ luật
Oan ức trĩu Hồn Cây
Sai phạm về tố tụng trong vụ án "Nguyễn Hữu Vinh
cùng đồng bọn…"
Não lòng với Hiến pháp
Bắt mạch Hiến… nháp
Hiến pháp vi hiến
Hiến pháp 2013 - Sửa nhầm
hay đổi thiệt?
Đảng và Nhân dân - Vị thế
bị tráo
Uẩn khúc trong Điều 4 Hiến pháp
Rủi cho Phương Uyên -
May cho Dimitrov
Quốc hiệu nào hội tụ
lòng Dân?
Chỗ đứng của Nhân dân trong
Hiến pháp
Teo dần quyền con người
trong Hiến pháp
Hai tử huyệt của chế độ
Lực cản Nhà nước pháp
quyền
Một số khía cạnh hình sự
của vụ án Tiên Lãng - Hải Phòng
Nhân vụ Tiên Lãng bàn về
công vụ
Quyền biểu tình của công dân
Bài học tồn vong từ thảm
họa
Phiêu lưu điện hạt nhân
Về huyền thoại điện hạt
nhân giá rẻ