BÀN VỀ QUI MÔ ĐÀO TẠO
ĐẠI HỌC
TỪ GÓC ĐỘ CHẤT LƯỢNG
GIẢNG VIÊN
Hoàng Xuân Phú
Qui mô...
Nhiều ý
kiến cho rằng: để hạn chế nạn dạy thêm, học thêm ở trường phổ thông thì phải
giảm bớt sức ép của các kỳ thi tuyển sinh đại học. Chỉ ra đề dễ và sát với sách
giáo khoa phổ thông thì chưa đủ, vì điều đó không làm thay đổi tỷ lệ trúng
tuyển và áp lực cạnh tranh vẫn còn nguyên như cũ. Vậy phải tăng qui mô đào tạo
bằng cách lập thêm trường mới, mở rộng trường cũ và đa dạng hóa loại hình đào
tạo. Khó khăn về kinh phí ư? Thì tăng học phí và các khoản đóng góp khác. Nhưng
việc mở rộng lại ảnh hưởng xấu đến chất lượng, vì ngay cả với qui mô hiện tại
thì nhiều trường đã phải tuyển vét đến cả những sinh viên có học lực quá yếu
rồi.
Đối với
những người quảng bá cho quan điểm phải coi giáo dục là một thị trường thì lo
lắng như vậy là quá nhiều. Thị trường tuân theo qui luật cung cầu. Nếu có người
cần mua thì bán, còn khách hàng làm được gì với sản phẩm là chuyện của họ. Qui
luật thị trường sẽ tự điều chỉnh mối quan hệ cung cầu và ổn định nhu cầu xã
hội.
Nhiều
người không nhất trí với quan điểm thị trường kể trên, nhưng cũng ủng hộ việc
mở rộng qui mô đào tạo. Dù không thể biến tất cả sinh viên yếu thành cử nhân
với chất lượng “tàm tạm”, nhưng cũng góp phần nâng cao dân trí. Hơn nữa, nếu
được dung nạp vào các trường đại học thì sẽ giảm bớt số lượng thanh niên vừa
rời khỏi trường phổ thông nhưng chưa biết làm gì, dễ sinh ra lêu lổng.
Đấy là
chưa kể đến nhu cầu đào tạo cán bộ cho các địa phương, cho vùng sâu, vùng xa.
Nhiều tỉnh cũng muốn lập trường đại học riêng. Lợi thì nhiều, ít nhất sẽ dễ chi
phối đầu vào để giải quyết nỗi lo canh cánh của nhiều quan chức.
Ai cũng có
lý. Những lý nói ra được và cả những lý không nói ra được. Thành thử lớp lớp mở
ra, người người đi học. Bên cạnh hàng chục vạn sinh viên phải vượt qua kỳ thi
tuyển quốc gia để bước vào cổng trường đại học, còn có một lực lượng hùng hậu
đi tắt đón đầu trong đội hình tại chức, đào tạo từ xa và cử tuyển.
... và chất lượng
Điều đáng
lo ngại là khi qui mô đào tạo phình ra thì chất lượng tụt xuống quá thấp. Những
bài giảng chiếu lệ, bớt giờ lại được sinh viên nhiệt liệt hưởng ứng, bởi lẽ như
vậy thì thi càng dễ - một cách nghĩ phổ biến khi mà kiến thức không còn là mục
tiêu chính để phấn đấu. Về hình thức, điểm học của sinh viên vẫn cao, hằng năm
vẫn có nhiều sinh viên tốt nghiệp loại giỏi và xuất sắc. Nhưng những đánh giá
ấy đáng tin cậy đến đâu? Một luận văn được cóp lộn xộn từ mấy tài liệu khác
nhưng không bị lên án về tính trung thực, hội đồng chấm cho điểm 9,5 trong khi
chỉ đáng một nửa, vậy mà tác giả còn được thầy hướng dẫn chia buồn vì không
được điểm tối đa. Những chuyện tương tự không hiếm, nên nhiều khi điểm thể hiện
tư cách người thầy hơn là trình độ của sinh viên.
Dư luận
kêu ca về tình hình giáo dục nước nhà, song thường chỉ đề cập đến giáo dục phổ
thông, trong khi giáo dục đại học cũng ở mức báo động từ lâu rồi. Các thầy cô
hay phàn nàn sinh viên lười và dốt, nhưng lại ít trăn trở về một yếu tố quyết
định hơn, đó là trình độ và đạo đức nghề nghiệp của giảng viên. Đúng là nước ta
có nhiều thầy giỏi và tốt. Nhưng tỷ lệ được bao nhiêu và có đủ để đảm bảo cho
chất lượng của hệ thống đào tạo đại học hay không?
Để xứng
đáng dạy đại học, giảng viên phải thường xuyên dành nhiều thời gian tự học, bổ
sung những kiến thức kinh điển mà mình còn thiếu và cập nhật những kiến thức
mới mẻ nhằm theo kịp sự phát triển của khoa học và công nghệ. Tiếc rằng thời
gian tự học của giảng viên ta quá ít, mặc dù trình độ chung còn lâu mới đáp ứng
được yêu cầu. Một nguyên nhân quan trọng là qui mô đào tạo quá rộng, dẫn đến
thời gian lên lớp quá nhiều. Thêm vào đó, những giáo trình có sẵn, đơn giản và
ít thay đổi cũng khiến nhiều người ỷ lại, chỉ học một lần rồi giảng suốt mười
năm.
Trong khi
ở nhiều nước, nghiên cứu khoa học được dùng để đánh giá chất lượng các trường
đại học, thì ở ta phần lớn giảng viên đại học không tham gia nghiên cứu (theo
đúng nghĩa quốc tế). Một số người chẳng còn thời gian để nghiên cứu, số khác
thì chưa bao giờ học nghiên cứu một cách thực sự. Cho nên, đòi hỏi họ phải dạy
cho sinh viên tập nghiên cứu nhiều khi là điều không tưởng.
Nhằm khắc
phục tình trạng giảng dạy và nghiên cứu ở các trường đại học, người ta đề nghị
đưa các viện nghiên cứu cơ bản về các trường đại học. Liệu giải pháp ấy sẽ đem
lại gì? Ví dụ: Nếu chia đều cán bộ nghiên cứu của Viện Toán học về các trường
đại học và cao đẳng quanh khu vực Hà Nội thì mỗi trường cũng chỉ có thêm được
một người. Liệu một người có đủ để giảm tải thời gian lên lớp và tạo ra phong
trào nghiên cứu toán học ở trường ấy không? Hay kết quả đáng kể nhất là làm tan
biến một tập thể nghiên cứu mà mấy chục năm phấn đấu với sự giúp đỡ to lớn của
bè bạn quốc tế mới xây dựng được? Để khỏi tan, có ý kiến đề nghị đưa nguyên cả
Viện Toán học về một trường đại học. Như vậy có thể có tác dụng tốt cho riêng
trường ấy, nhưng ảnh hưởng gì đến hàng trăm trường khác?
Cần tìm
giải pháp nâng cao chất lượng giảng dạy và nghiên cứu ngay trong chính các
trường đại học. Trước hết phải hạn chế số giờ lên lớp ở mức độ hợp lý để giảng
viên có thời gian nâng cao trình độ và tham gia nghiên cứu khoa học. Đồng thời
phải có những qui định mang tính bắt buộc và biện pháp động viên thích hợp để
thúc đẩy giảng viên làm tốt hai nhiệm vụ đang bị lơ là này.
Phải rất
nghiêm túc và quyết tâm phấn đấu trong một thời gian dài thì mới hy vọng có thể
củng cố và phát triển đội ngũ giảng viên đại học cho tương xứng với qui mô đào
tạo hiện nay. Không còn con đường nào khác, nếu nhận thức rằng chất lượng giáo
dục là một yếu tố quyết định số phận của cả dân tộc.
Làm ra một
máy công cụ không đủ chất lượng thì phải bỏ đi, nếu cố dùng thì chỉ lãng phí
vật liệu để sản xuất ra phế phẩm, đôi khi lại gây ra tai nạn. Sản phẩm giáo dục
tồi thì tệ hại hơn vì không thể hủy đi, và có thể có ngày “sản phẩm” ấy sẽ ngoi
lên được vị trí quan trọng, gây ảnh hưởng xấu cho cộng đồng. Bàn thêm như vậy
để thấy đây không phải là điều có thể tặc lưỡi bỏ qua.
Nhu cầu và
đáp ứng
Nhu cầu
thì có nhiều loại, nhưng không phải loại nào cũng chính đáng và nên thỏa mãn.
Con bạn có nhu cầu nghiện hút, liệu có nên chiều không? Bây giờ có nhiều người
đi học nhưng không định học, chẳng màng kiến thức mà chỉ định kiếm mảnh bằng,
để làm vỏ bọc tiến thân, hay dụng cụ ảo thuật, hay chỉ đơn thuần là có tí danh.
Hiếu danh được ngụy trang bằng hiếu học. Có đáng hy sinh chất lượng giáo dục
đại học vì đối tượng này hay không?
Nếu vì
nâng cao dân trí và thỏa mãn nhu cầu kiến thức thì có thể mở ra hình thức đại
học nhân dân, trong đó ai muốn hiểu thêm về lĩnh vực nào thì cứ đăng ký tham
gia, học được gì tự mình biết lấy, cuối khóa học không có bằng chứng thực. Ở
nhiều nước loại hình này thu hút rất đông học viên, nhất là những người lớn
tuổi. Ở ta, nếu chỉ cung cấp kiến thức chứ không cấp bằng, chẳng hiểu còn bao
người theo học? Nhưng sự hiện diện của một cơ sở đào tạo như vậy sẽ giúp cho
những người có thiện ý đỡ phân vân và nhiều người bớt ngụy biện.
Nếu coi
nhu cầu trang trí bằng cấp là chính đáng, bất chấp kiến thức kèm theo, thì cũng
chẳng cần dùng đến các trường đại học để phải mở rộng qui mô. Trên internet vẫn
xuất hiện đầy những quảng cáo theo kiểu: “Không phải học, không phải thi, không
phải viết luận văn - Bạn có thể nhận được bằng cử nhân, hay thạc sĩ, hay tiến
sĩ của bất cứ ngành nào mà bạn muốn.” Chỉ cần nộp ít tiền thì chẳng mấy lúc sẽ
có 5-6 bằng tiến sĩ, của nước ngoài hẳn hoi. Đã có lần báo chí ngợi ca một
trường hợp như vậy.
Xin trao
đổi thêm đôi chút về phương diện quản lý xã hội. Nhiều thanh niên có thể trở
thành những người lao động giỏi, thậm chí là xuất sắc, đóng góp cho xã hội còn
hơn hẳn những kỹ sư làng nhàng. Nhưng nếu cho họ vào đại học thì không tiếp thu
nổi. Được chiếu cố mảnh bằng thì chỉ thêm ngộ nhận, kéo dài thời gian lang
thang thử nghiệm, cho đến khi lãng phí hết tuổi xuân lại phải bỏ nghề (cái nghề
thực ra chưa bao giờ có) để kiếm kế sinh nhai. Trong hoàn cảnh đó có bao gia
đình nghèo, bán hết gia súc, ruộng vườn và vay nợ cho con ăn học với hy vọng
đổi đời, để rồi cuối cùng tiền mất tật mang. Với những trường hợp như vậy, có
thể coi việc mở rộng cửa trường đại học là sự giúp đỡ cao thượng hay không? Tác
dụng xã hội là giảm bớt số thanh niên lêu lổng cũng chỉ xuất hiện tạm thời
trong mấy năm đầu thực hiện chính sách mở cửa, còn sau đấy thì đâu lại vào đó,
chỉ biến một số thanh niên lêu lổng thành cử nhân lang thang mà thôi.
Bàn thêm
như vậy để bớt mơ mộng và huyễn hoặc thôi, chứ không phải đòi hỏi bộ máy quản
lý phải cân đối và tối ưu mọi mặt. Muốn điều khiển toàn diện và triệt để thì
phải hiểu thấu đáo tình hình, cả trong nước lẫn quốc tế, cả hiện tại lẫn tương
lai. Nhưng đấy là điều không tưởng, vì xã hội quá đa dạng và sự phát triển của
nó quá phức tạp, dù muốn, dù cố cũng không thể bao quát hết được. Không hiểu mà
can thiệp quá nhiều thì ảnh hưởng xấu sẽ nhiều hơn tốt.
Về lâu
dài, mở rộng qui mô đào tạo đại học là một điều tất yếu. Trước mắt vẫn còn
nhiều nhu cầu chính đáng của xã hội và đòi hỏi bức thiết của nền kinh tế chưa
được đáp ứng. Nên khi cần thì vẫn phải mở thêm trường, thêm lớp, nhưng phải
thận trọng, mở đến đâu chắc đến đấy. Đồng thời cũng phải xóa bỏ những nơi và
hình thức đào tạo không còn xứng đáng tồn tại. Tiêu chuẩn đánh giá quan trọng
nhất phải là chất lượng đào tạo. Cơ sở quyết định quan trọng nhất phải là năng
lực thực tế của đội ngũ giảng viên.
Lý do
chính khiến ta chưa thể mở rộng, thậm chí còn phải thu hẹp qui mô đào tạo đại
học, là số lượng và chất lượng của đội ngũ giảng viên chưa đáp ứng được qui mô
hiện nay.
Điều này còn chính yếu hơn và bế tắc hơn nhiều so với chất lượng đầu vào và khó
khăn về kinh phí. Khi không có đủ thầy thì chẳng thể bàn tới chuyện thỏa mãn
nhu cầu đi học của xã hội. Để dễ hiểu, xin liên hệ với thị trường hàng hóa.
Đúng là có cầu thì cung, có mua thì bán. Nhưng chỉ có thể cung khi người bán có
hàng, mà là hàng đảm bảo chất lượng. Không có hàng hoặc chỉ có hàng giả kém
chất lượng mà vẫn bán là lừa đảo. Nếu bộ máy quản lý làm ngơ thì vô trách
nhiệm, còn nếu lại ra quyết định phải bán hàng trong khi chỉ có hàng giả thì
không thể nào chấp nhận được. Khi coi giáo dục là một thị trường thì hàng hóa
là kiến thức mà đội ngũ giảng viên thực có. Số lượng hàng hóa lệ thuộc vào số
lượng giảng viên và thời gian họ có thể làm việc “tử tế”. Chất lượng hàng hóa
phụ thuộc vào trình độ giảng viên và thời gian được dành để truyền thụ kiến
thức cho mỗi lớp sinh viên. Khi không đủ giảng viên có trình độ để đảm bảo
chất lượng của tất cả các giờ dạy mà vẫn tuyển sinh, mở lớp thì chẳng khác gì
bày bán hàng giả! Trớ trêu thay: chẳng ai dám bán một chiếc kẹo cao su cho
hai “thượng đế”, thế mà tên một số thầy lại hay được chưng ra để mở quá nhiều
trường nhiều lớp.
Mấy kiến nghị cụ thể
1. Nhà
nước cần xây dựng quy hoạch dài hạn cho sự phát triển của qui
mô đào tạo đại học, trong đó không chỉ dựa vào nhu cầu học tập của xã hội
và đòi hỏi nhân lực của nền kinh tế, mà đặc biệt chú ý tới hiện trạng của
đội ngũ giảng viên và khả năng đào tạo giảng viên bổ sung. Do ta không có
nguồn dự trữ (như ở nhiều nước phát triển) và phải mất từ 5 đến 10 năm mới có
thể đào tạo một người đã tốt nghiệp đại học loại giỏi trở thành giảng viên đại
học có trình độ, nên muốn tăng qui mô đại học thì phải sớm có chính sách
phù hợp để thu hút người giỏi và bắt đầu đào tạo giảng viên bổ sung từ 7-8 năm
trước đó. Xây dựng cơ sở vật chất thì có thể vay vốn để hoàn thành trong
một thời gian ngắn, nhưng nhân lực trí thức thì không thể vay mượn của ngân
hàng mà cần phải đào tạo trong thời gian dài. Vì vậy không thể bỗng chốc lại
tùy tiện đưa ra quyết định thành lập một trường đại học.
2. Khi xét
duyệt đề án thành lập mới một cơ sở đào tạo, Bộ Giáo dục và Đào tạo nên kiểm
tra kỹ phương án tuyển dụng giảng viên. Mỗi trường cần có một số lượng giảng
viên khung tối thiểu để có thể chủ động đảm bảo chương trình giảng dạy trong
mọi tình huống. Đối với giảng viên thuê ở ngoài, cần có đăng ký cụ thể là dạy
bao nhiêu thời gian. Phải có biện pháp kiểm tra và quản lý tổng số giờ lên
lớp của từng giảng viên (thực hiện ở tất cả các trường mà người ấy tham
gia), tránh tình trạng dạy quá tải, gây hậu quả xấu cho chất lượng.
Trong hoàn cảnh thiếu giảng viên đủ trình độ, không thể cho thành lập quá nhiều
trường rồi để mặc các trường tự thân vận động. Chỉ có cái chăn vừa hẹp lại vừa
mỏng, cố kéo lên che đầu sẽ hở chân, giằng co thì cuối cùng rách toặc.
3. Để phục
vụ cho việc qui hoạch đào tạo giảng viên và quản lý hoạt động của các trường,
nên tiến hành khảo sát, thống kê và lập cơ sở dữ liệu về giảng viên đại học
trên phạm vi toàn quốc, trong đó dùng mã số để xác định duy nhất từng
người. Nếu đăng ký về số giờ giảng dạy được lưu trữ trong cơ sở dữ liệu này thì
có thể nhanh chóng kiểm tra xem những người tham gia dạy đồng thời ở nhiều
trường có quá tải không và phương án huy động giảng viên của một trường có thể
chấp nhận được hay không. Thực ra, đây cũng chỉ là một biện pháp bất đắc dĩ cho
tình trạng thiếu tự giác, thuê giảng viên lộn xộn và dạy quá tải tràn lan ở
nước ta hiện nay.
4. Một khi
đã đòi hỏi giáo viên phổ thông trung học phải có trình độ đại học thì khoảng
cách tối thiểu giữa người dạy và người học đại học cũng phải là 5 năm
đào tạo, nghĩa là giảng viên đại học phải có trình độ tiến sĩ. (Thậm
chí, ở nhiều nước, chỉ các tiến sĩ đã được phong giáo sư hoặc phó giáo sư mới
được đọc bài giảng tại các trường đại học, còn những tiến sĩ khác chỉ được làm
trợ giảng.) Tuy còn lâu ta mới đạt được chuẩn này, nhưng cũng phải hướng vào đó
mà phấn đấu. Không thể để diễn ra mãi cảnh vừa học xong đại học đã quay ra dạy
đại học. Đặc biệt, không nên để các trường đại học chất lượng thấp tuyển sinh
viên của chính mình làm giảng viên. Phải tập trung xây dựng một số trường đại
học chất lượng cao để làm cơ sở đào tạo giảng viên cho các trường đại học trong
toàn quốc.
5. Đảm
bảo chất lượng của đội ngũ giảng viên là vấn đề then chốt trong công tác tổ
chức đào tạo đại học. Nhiệm vụ này rất khó khăn, đòi hỏi phải thường xuyên
phấn đấu, phải nghiêm túc và thận trọng, nhất là lúc mới thành lập. Khi
đã rơi vào trạng thái cán bộ đủ tiêu chuẩn chỉ là thiểu số nhỏ thì khó mà thoát
ra khỏi. Nhân danh đa số, chuẩn dễ bị bóp méo và vai trò dễ bị đảo lộn. Xét từ
góc độ này, phong trào “đại học hóa” các trường cao đẳng là một xu hướng đáng
lo ngại. Ai cũng biết rằng xây nhà mới rẻ và tốt hơn hẳn so với cải tạo và nâng
cấp nhà cũ. Nếu cứ cố tận dụng móng và tường của một ngôi nhà cấp 4 để nâng lên
thành nhà nhiều tầng thì sẽ phải chịu mãi những hạn chế cơ bản của kiến trúc
cũ, không thể khắc phục triệt để, và về lâu dài luôn tiềm ẩn nguy cơ xảy ra sự
cố. Việc nâng cấp một trường cao đẳng lên đại học còn nan giải hơn vì đụng đến
con người (là đối tượng khó cải tạo hơn các công trình xây dựng) và bị chi phối
bởi nguyên tắc thiểu số phục tùng đa số. Nếu quan niệm không cần hệ đào tạo cao
đẳng nữa thì hãy bỏ đi, còn nếu thấy vẫn cần thì nên duy trì các trường cao
đẳng. Đừng biến chúng thành đại học rồi sau này lại phải sinh ra những trường
cao đẳng non trẻ khác để bù lại, trong khi các bậc tiền thân khó trở thành đại
học “xịn”. Nếu cứ để xu hướng “đại học hóa” này tiếp diễn, không chừng sẽ có
nhiều trường mẫu giáo mầm non noi theo, xin nâng cấp thành trường phổ thông cơ
sở.
6. Nên
xây dựng các cơ sở đào tạo đại học tương đối tập trung. Không nên phân tán,
tỉnh nào cũng thành lập một trường đại học. Như vậy là phi kinh tế, vì chi phí
để xây dựng và duy trì trường ấy còn cao hơn nhiều so với việc cấp học bổng ưu
đãi cho tất cả sinh viên của tỉnh đến học tại các trường đại học đang tồn tại ở
nơi khác. Đáng nói hơn là: trường đại học ở một tỉnh vừa nhỏ, vừa xa các trung
tâm lớn khó có được đội ngũ giảng viên đủ trình độ. Cán bộ khoa học của tỉnh
quá ít, còn trí thức từ nơi khác thì không muốn đến. Khi một trường đại học trở
thành “vườn trẻ”, cả “mẫu giáo lớn” và “mẫu giáo bé” đều chật ních những người
được tuyển theo cơ chế áp đặt hoặc thân quen, thì nó sẽ trở thành trung tâm
hiểm họa hơn là trung tâm văn hóa của tỉnh.
7. Lâu nay
đã có quy định số giờ chuẩn cho giảng viên, nhưng nó được hiểu như nghĩa vụ tối
thiểu và là cơ sở để tính quyền lợi khi dạy vượt giờ. Cần phải qui định cả
số giờ dạy tối đa, vừa là kỷ luật lao động để bảo vệ sức khỏe và chất
lượng giảng dạy, vừa là biện pháp để đảm bảo cho các giảng viên có thời
gian bổ sung kiến thức và tham gia nghiên cứu khoa học.
8. Một số
qui định bằng cấp trong chính sách cán bộ mang nặng tính hình thức và có
tác dụng xấu hơn là tốt. Chúng đẩy một lực lượng lớn của xã hội lao vào cuộc
chạy đua tìm kiếm bằng cấp, tạo sức ép phi lí lên qui mô đào tạo và đẩy chất
lượng xuống vực thẳm. Lãng phí thời gian và của cải. Bỏ bê nhiệm vụ đang
đảm nhận. Truyền thụ kiến thức thì ít mà tiêu cực thì nhiều. (Điều này cũng xảy
ra ở mấy môn học được áp trên diện rộng nhằm nâng cao giác ngộ và đạo đức của
xã hội.) Cuối cùng lại làm tha hóa cả thầy, trò và bộ máy. Không thể làm
ngơ trước những gì đang diễn ra nhân danh “chuẩn hóa cán bộ”. Nếu thực sự
muốn đề cao bằng cấp thì Nhà nước phải quản lý chặt chẽ để đảm bảo chất lượng,
điều khó mà làm được trong tình trạng xã hội hiện nay. Nếu không quản lý nổi
chất lượng thì không có lý gì lại nhấn mạnh bằng cấp trong tiêu chuẩn cán bộ,
để nhiều khi bằng thật thì mốc meo, còn bằng rởm lại được trọng dụng. Nói cho
cùng, bằng cấp chỉ là mốc đánh dấu trên một chặng đường đào tạo, không phải
thước đo trình độ và năng lực.
Hà Nội, 2/9/2004
On the
dimension of university education with respect to lecturer quality
Hoang Xuan
Phu
Institute
of Mathematics, VAST
18 Hoang
Quoc Viet Road, Hanoi, Vietnam
http://hpsc.iwr.uni-heidelberg.de/hxphu/
(Written
during the seminar on problems of Vietnam’s education system organized by
Professor Hoang Tuy in Hanoi from March until May 2004 and published in the
newspaper “Law - Sunday” on 3/10/2004 and 10/10/2004)