Bài học tồn vong từ thảm họa
Hoàng Xuân Phú
Mọi giàu sang vô nghĩa
Nếu dân tộc diệt vong
Đối với
đất nước mặt trời mọc, 05/05/2012 là một ngày đặc biệt: Lò cuối cùng trong số
54 lò điện hạt nhân của Nhật Bản ngừng hoạt động. Một số lò phải ngừng vĩnh viễn.
Một số lò đang được kiểm tra an toàn. Số còn lại đã qua kiểm tra an toàn, nhưng
vẫn chưa được hoạt động trở lại, vì còn bị nhân dân và chính quyền địa phương
phản đối. Như vậy, sau 46 năm kể từ khi dòng điện hạt nhân đầu tiên được hòa
vào lưới quốc gia, mạng điện Nhật Bản lại sạch điện hạt nhân. Hàng ngàn người Nhật đã tuần hành
trên đường phố Tokyo để chào mừng sự kiện này. Họ đại diện cho đông đảo người dân
Nhật có xu hướng chống lại điện hạt nhân. Khảo sát của GlobeScan cho thấy: Tỷ lệ
chống xây dựng lò phản ứng hạt nhân mới tại Nhật Bản đã tăng từ 76% vào năm
2005 lên 84% vào cuối năm 2011. Nhưng niềm vui của họ kéo dài không
lâu. Sau một thời gian vận động ráo riết, trong cuộc họp với một số bộ trưởng
chủ chốt sáng ngày 16/06/2012, Thủ tướng Yoshihiko Noda đã công bố quyết định
cho khởi động lại hai lò phản ứng số 3 và 4 của nhà máy điện hạt nhân Oi tại tỉnh
Fukui vào đầu tháng 07/2012. Quyết định này đã làm đa số người
dân Nhật Bản thất vọng. Theo thăm dò dư luận của Mainichi, 71% số người được hỏi
ý kiến chống lại việc vội vã tái khởi động nhà máy điện hạt nhân Oi, trong khi
chỉ có 23% là đồng tình ủng hộ. Vậy là thiểu số lại thắng đa số. Còn
lẽ phải thì thuộc về ai? Để trả lời câu hỏi này, và quan trọng hơn là để trả lời câu hỏi có nên xây dựng nhà máy điện hạt nhân ở
Việt Nam hay không, ta hãy cùng nhau đúc kết một số bài học từ thảm họa
Fukushima.
Phượng
hoàng trụi cánh
Lò phản
ứng hạt nhân thương mại đầu tiên của Nhật Bản mang tên Tokai-1, được xây dựng từ
năm 1961, hòa lưới điện từ cuối năm 1965 và phát điện trong 33 năm. Từ đó đến nay,
nhiều nhà máy điện hạt nhân được xây dựng trên đất Nhật Bản, nhất là sau khi
năng lượng hạt nhân được xác định chiếm vị trí ưu tiên chiến lược quốc gia vào
năm 1973. Đầu năm 2011, 50 lò phản ứng hạt nhân với tổng công suất khoảng 45
GWe đã sản xuất gần 30% tổng điện năng quốc gia. Theo kế hoạch trước đây, tỷ trọng
điện hạt nhân ở Nhật Bản sẽ tăng lên 41% vào năm 2017 và 53% vào năm 2030.
Nhật Bản
có thừa năng lực tài chính, công nghệ và nhân lực để đạt được mục tiêu kể trên.
Hẳn không ai nghi ngờ về điều đó, sau khi đã chứng kiến dân tộc Nhật Bản như
phượng hoàng, vùng dậy từ đống tro tàn của Đại chiến Thế giới lần thứ 2, vươn
lên một cách kỳ diệu và nhanh chóng trở thành cường quốc kinh tế đứng thứ hai
trên thế giới. Thế nhưng, tương lai quốc đảo khựng lại, rồi đột ngột ngoặt sang
hướng khác, sau phút giây định mệnh ấy...
Đúng
14 giờ 46 phút 23 giây ngày 11/3/2011, trận động đất mang tên Tohoku bắt đầu xảy
ra. Sau 23 giây, sóng áp lực lan tới nhà máy điện hạt nhân Fukushima Daiichi của TEPCO (Tokyo Electric
Power Company), nằm
cách tâm chấn 163 km. Động đất làm hỏng một số thiết bị của trạm biến thế, khiến
mất nguồn cấp điện từ bên ngoài, và các máy phát điện dự phòng tự động khởi động. Động đất cũng gây ra nhiều hư hại ở
các lò phản ứng. Tại nhà lò số 1, đường ống bị vỡ và nước phụt ra, một hệ thống làm lạnh khẩn cấp tự khởi
động lúc 14h52, nhưng sau 11 phút thì tắt ngấm. Tại nhà lò số 3, một hệ thống đường ống
chính và một bộ phận làm lạnh khẩn cấp bị hư hại... May mà lò phản ứng số 5 và 6 đang ngừng
hoạt động để bảo dưỡng định kỳ, nên mức độ thiệt hại giảm đáng kể.
15h35,
tức là 49 phút sau khi động đất bắt đầu, một cơn sóng thần cao khoảng 14–15 mét
ập đến nhà máy Fukushima Daiichi và trùm lên cả 6 lò phản ứng hạt nhân. 6 phút sau các máy phát điện dự
phòng ngừng hoạt động. Ác quy dự phòng nếu không bị trục trặc thì cũng chỉ cấp
điện trong một thời gian ngắn. Xe phát điện từ xa không đến được bởi tắc nghẽn
giao thông. Khoảng 70 xe phát điện của Lực lượng
Phòng vệ Nhật Bản và của một số cơ sở lân cận được điều động tới, nhưng bị chựng
lại trước hiện trường ngổn ngang đổ vỡ. Đấu vào trạm điện không được vì đang bị
ngập nước, nối ra xa cũng không xong vì dây điện mang theo quá ngắn. Sau khoảng
24 tiếng đồng hồ, kể từ khi thiên tai xảy ra, đường nối giữa một xe phát điện
và lò phản ứng số 2 mới được thiết lập, nhưng sau chốc lát đã bị cắt đứt bởi vụ
nổ khí hyđrô trong lò số 1. Hai ngày sau, những mảng bê tông bắn ra từ vụ nổ
khí hyđrô ở lò số 3 lại làm hư hại một số xe phát điện. Tận ngày 21/03/2011, tức
là sau 10 ngày vật lộn, họ mới nối được nhà máy Fukushima Daiichi với mạng điện
công cộng.
Do mất
điện và một số máy móc đã bị động đất, sóng thần làm hỏng, hệ thống làm lạnh bị
tê liệt. Nhiệt độ trong lò phản ứng và trong bể đựng nhiên liệu hạt nhân (spent
fuel pool - bể chứa nhiên liệu đã qua sử dụng) tăng vụt, làm nước bay hơi
nhanh, khiến nhiên liệu hạt nhân bị phơi trần. Trong lò phản ứng số 1, chỉ sau
5 tiếng đồng hồ kể từ khi động đất, nhiên liệu hạt nhân đã bị phơi trong không
khí. Suốt 6 giờ liền, nhiệt độ bên trong bó nhiên liệu lên đến 2.800°C. Các bó
nhiên liệu hạt nhân nóng chảy trong 16 giờ, rơi xuống và khoét thủng đáy bể áp
lực (reactor pressure vessel), rồi rơi tiếp xuống nền bể chứa
(containment vessel) và khoét một hố sâu khoảng 70 cm trong lớp bê tông dày 7,6
m. Nhiên liệu hạt nhân trong hai lò số 2 và 3 cũng rơi vào tình trạng tương tự:
Bị hư hại và nóng chảy, một phần rơi xuống đáy bể áp lực, một phần rơi xuống nền
bể chứa.
Khi trực
thăng chở Thủ tướng Naoto Kan hạ cánh ở Fukushima (07h11 ngày 12/03/2011), thì
khoảng 5 tiếng đồng hồ đã trôi qua, kể từ lúc Chính phủ ra lệnh TEPCO phải xả
áp (venting) từ lò phản ứng. Nghe tin việc đó chưa được tiến hành, ông hét lên:
“Vẫn chưa xả áp sao?”
Thủ tướng Kan sốt ruột như đang ngồi trên lửa, bởi ý thức được rằng chậm phút
nào nguy phút ấy, vì áp suất trong bể chứa đã lên quá cao. Lúc 02h30 ngày
12/3/2012, áp suất trong bể chứa của lò số 1 đã lên đến 840 kPa tuyệt đối,
trong khi nó chỉ được thiết kế cho áp suất vận hành tối đa là 427 kPa tương đối
(tương ứng với 528,3 kPa tuyệt đối). Nếu không nhanh chóng xả bớt khí nén để giảm
áp suất thì tai họa khôn lường. Hiển nhiên, khi xả áp thì một lượng lớn phóng xạ
sẽ bị tung ra môi trường. Nhưng nếu không chủ động xả áp, thì hậu quả còn có thể
khủng khiếp hơn nhiều.
Gấp
gáp như vậy, nhưng không thể tiến hành xả áp ngay lập tức, vì phải đợi đến lúc
sơ tán xong những người dân đang sinh sống trong quận Okuma, nơi nhà máy tọa lạc.
Vả lại, mọi người còn đang lúng túng, không tìm được tài liệu hướng dẫn cách mở
van xả áp bằng tay trong hoàn cảnh mất điện, nên đành phải đoán mò để lên
phương án hành động. Hơn nữa, không thể dễ dàng phái người lao vào khu vực tối
mò, không liên lạc được với bên ngoài, và ô nhiễm phóng xạ vượt quá giới hạn
cho phép con người trụ lại lâu. Chỉ còn cách là huy động một số người cảm tử,
được trang bị mỗi quần áo chịu lửa, bình dưỡng khí cá nhân và đèn pin, rồi mò mẫm
đi vào chốn hiểm nguy, với tinh thần “lần cống hiến cuối cùng” và phương châm
“tùy cơ ứng biến”. Sau khoảng 12 tiếng đồng hồ kể từ khi Chính phủ ra lệnh xả
áp và 5 tiếng từ khi nhóm cảm tử đầu tiên xuất phát, vượt qua bao hiểm nguy và
trắc trở, họ mới nối được máy nén khí di động với một van xả áp vận hành bằng
khí nén vào lúc 14h00, và 30 phút sau áp suất trong bể chứa của lò số 1 mới có
dấu hiệu giảm xuống. Kết quả xả áp muộn mằn đã hạn chế
đáng kể nguy cơ rình rập, nhưng không ngăn kịp vụ nổ xảy ra lúc 15h36, gây ra bởi
khí hyđrô, từ bể chứa thoát ra qua các khe tiếp nối, và tích tụ quá nhiều trong
nhà lò (reactor building).
Hai vụ
nổ tiếp theo xảy ra lúc 11h01 ngày 14/03/2011 tại lò số 3
và lúc 06h20 ngày 15/03/2011 tại lò số
2. Trước đó công nhân cũng đã tìm cách
mở van để xả áp ở hai lò ấy, nhưng có van thì không tiếp cận được vì phóng xạ
nơi đó quá cao, van tiếp cận được thì lại không mở được hoặc mở mãi mới ra, có
van mở được một lúc thì nó lại tự động đóng. Phải nói thêm rằng các van an toàn
này, do Tập đoàn General Electric của Mỹ chế tạo, đã được thiết kế để
có thể mở bằng tay, nhưng trên thực tế thì những thiết bị được cam đoan là hoàn
hảo ấy đã phản chủ. Thất bại này không chỉ làm cho phía Nhật choáng váng và phải
trả giá quá đắt, mà cơn sóng sốc tâm lý còn lan sang cả Mỹ, bởi hai nước này có
nhiều nhà máy điện hạt nhân sử dụng những công nghệ tương tự như ở nhà máy
Fukushima Daiichi.
Trong
hai ngày đầu, cả Chính phủ và TEPCO đều chỉ tập trung chống chọi với sự cố
trong các lò phản ứng, và bỏ qua các bể đựng nhiên liệu. Đó là nơi lưu trữ những
bó nhiên liệu hạt nhân đã sử dụng xong, nhưng nhiều khi cũng có cả những bó
nhiên liệu đang sử dụng dở hoặc còn mới nguyên. Khi mực nước làm lạnh trong bể
tụt xuống, các bó nhiên liệu hạt nhân phơi ra không khí và bị hư hại vì quá
nóng. Nguy hiểm hơn nữa là phóng xạ từ các bể này dễ thoát ra môi trường, vì
chúng không nằm trong khu vực được bảo vệ kỹ lưỡng như lò phản ứng. Tại bể đựng
nhiên liệu của lò số 4, nhiệt độ vào sáng 14/03/2011 tăng lên 84°C, và khoảng 06h00 sáng ngày 15/03/2011
thì xảy ra một vụ nổ.
Có dư
luận phê phán TEPCO đã sao nhãng, quan tâm quá muộn tới các bể đựng nhiên liệu.
Nhưng thực ra, trước đó TEPCO hoàn toàn bị mắc kẹt với việc ứng phó tại các lò
phản ứng, không còn dư lực lượng để lo việc khác. Trong thời gian đầu, TEPCO chỉ huy động
được 400 người, quá ít để có thể đồng thời chống chọi với sự cố ở 6 lò phản ứng.
Vì sao? Điều tra của IAEA (International
Atomic Energy Agency –
Cơ quan Năng lượng Nguyên tử Quốc tế) phát hiện ra một thực tế trần trụi là: Giữa
một đất nước đầy thiên tai như Nhật Bản, mà chưa có một kế hoạch ứng phó trong
trường hợp sự cố hạt nhân diễn ra đồng thời tại nhiều lò khác nhau, như ở nhà
máy Fukushima Daiichi.
Tai nạn điện hạt nhân diễn ra quá nhanh, khiến con người không
phản ứng kịp. Bộ
máy quản lý lại quan liêu, kềnh càng và trở nên quá chậm chạp. Để minh họa, chỉ
cần nhắc lại ví dụ về tiến trình ra quyết định sử dụng nước biển làm lạnh.
14h53 ngày 12/3/2011, phải dừng bơm nước vào lò phản ứng số 1, do nguồn nước ngọt
bị cạn kiệt. 15h18 TEPCO gửi fax cho NISA (Nuclear and Industrial Safety Agency – Cục An toàn Hạt nhân và Công nghiệp Nhật Bản) xin phép
dùng nước biển thay thế. Việc cạn nguồn nước ngọt hoàn toàn
không bất ngờ, nhưng TEPCO không thỉnh thị sớm hơn, vì lưỡng lự, sợ rằng nếu
bơm nước mặn vào lò phản ứng thì sẽ làm hỏng các thiết bị. Tiếc rằng NISA đã không chuyển ngay bức
fax của TEPCO cho văn phòng Thủ tướng. Gần 3 tiếng sau (khoảng 18h), Thủ tướng
Naoto Kan mới bắt đầu thảo luận với các bộ trưởng. 20h05 NISA thừa lệnh Thủ tướng, ra
quyết định cho phép bơm nước biển vào lò số 1 của nhà máy Fukushima Daiichi. Như vậy là mất khoảng 5 tiếng đồng hồ
chờ đợi, kể từ khi TEPCO gửi fax xin phép, cấp trên mới chuẩn y, trong khi lò
nóng lên từng giây, từng phút, và một vụ nổ khí hyđrô đã xảy ra tại lò số 1 vào
lúc 15h36, tức là chỉ 18 phút sau khi TEPCO thỉnh thị cấp trên. Rõ ràng, không tồn tại một cơ chế
xét duyệt và ra quyết định nào có thể theo kịp diễn biến của một tai họa hạt
nhân.
Để có thể đưa ra quyết định
hợp lý thì phải dựa trên thông tin chính xác. Nhưng khi mất điện, tối mò, nhiều
thiết bị đo đạc (áp suất, nhiệt độ, mực nước…) trục trặc, thì các chuyên gia và
công nhân có mắt cũng như mù, không thể biết chính xác trạng thái bên trong của
lò phản ứng. Họ chỉ có thể phỏng đoán, nói đúng hơn là đoán mò. Hãy nghe cựu Thủ
tướng Naoto Kan kể lại:
“Tôi nhận được báo cáo là hệ thống làm
lạnh khẩn cấp của lò số 1 vẫn hoạt động và vì vậy nước vẫn ngập 2/3 bó nhiên liệu.
Thế nhưng, trên thực tế thì đấy chỉ là điều mà TEPCO và NISA nghĩ là đã diễn ra
vào thời điểm đó. Sau này chúng tôi phát hiện ra là họ đã hoàn toàn sai. Thực
ra, khoảng 5 tiếng sau khi sóng thần đổ bộ, quá trình nóng chảy đã diễn ra
trong lò.”
“Thiết bị đo mực nước chỉ một mức ổn định,
vậy là các công nhân nghĩ rằng tình hình bình thường. Nhưng thực ra thiết bị đo
mực nước đã bị hỏng.”
Với những
thông tin hoàn toàn sai thực tế như vậy, thì làm sao có thể quyết định và hành
động cho đúng?
Đôi
khi thông tin không sai, nhưng lại quá chậm. Như vụ nổ ở lò số 3, vô tuyến truyền
hình đã đưa tin, khoảng 1 giờ sau thì TEPCO mới thông báo cho văn phòng Thủ tướng. Thậm chí, nhiều thông tin quan trọng
còn bị ém nhẹm hay bị bóp méo. Không khí thiếu tin tưởng bao trùm các bên liên
quan, đến mức Thủ tướng phải cử ông Goshi Hosono, một trong những phụ tá tin cẩn
nhất, túc trực ở trụ sở TEPCO kể từ sáng sớm ngày 15/03/2011. Một cố vấn của Thủ
tướng thổ lộ rằng: Việc cài ông Hosono ở TEPCO là một bước ngoặt, và “lần đầu
tiên, chúng tôi biết được TEPCO thảo luận những gì và họ biết những gì”. Một
cố vấn khác của Thủ tướng, kỹ sư hạt nhân Masanori Aritomi, nói rằng: Kể cả sau
khi đã cắm Goshi Hosono ở TEPCO, tập đoàn này vẫn không hé lộ một số thông tin
mấu chốt đến tận giữa tháng 5, bao gồm cả việc công nhận rằng nhiên liệu hạt
nhân trong 3 lò phản ứng đã bị nóng chảy. Trong tình hình bị cấp dưới bịt mắt
như vậy, thử hỏi làm sao Thủ tướng có thể chỉ đạo được? Ông Kan than vãn là
không bao giờ nhận được loại thông tin mà ông cần, và NISA (Cục An toàn Hạt
nhân và Công nghiệp Nhật Bản) tỏ ra đặc biệt kém cỏi. “Tôi hoảng sợ và cảm thấy bất lực” – ông Kan đã thú nhận như vậy.
Khi tai nạn hạt nhân vừa mới xảy ra thì tất cả các thanh tra của NISA đã cao chạy
xa bay, không còn ai lưu lại hiện trường để theo dõi mức phóng xạ. TEPCO thì
lúng túng, không nối nổi đường cáp truyền dữ liệu phóng xạ tới Chính phủ, mà họ
ngắt ra mấy tháng trước đó để sửa chữa, nhưng rồi quên, không nối lại…
Với một đội ngũ cấp dưới như vậy thì Thủ tướng cũng trơ trọi như tướng không có
quân. Các nhà lãnh đạo của các quốc gia đang hoặc sẽ có nhà máy điện hạt nhân
nên tham khảo trải nghiệm của cựu Thủ tướng Nhật Bản, để hiểu hơn hoàn cảnh mà
mình có thể lâm vào, đặng giảm bớt phần nào ngộ nhận.
Bài học
tối thiểu phải rút ra từ đây là: Khi thảm họa điện hạt nhân xảy ra, các cấp lãnh đạo, quản lý khó
lòng có nổi những thông tin tối thiểu trong thời gian cần thiết, nên không có
cơ sở để đưa ra quyết định hợp lý.
Một
trong những khác biệt quan trọng nhất giữa tai họa hạt nhân và các tai họa khác
là: Khi
tai họa hạt nhân xảy ra thì con người rất khó có thể xông vào để cứu chữa và khắc
phục hậu quả, vì hiện trường thường bị nhiễm xạ trầm trọng. Nhiều lần công nhân nhà máy Fukushima
Daiichi tìm cách tiệm cận các van để xả áp, nhưng buộc phải rút lui vì mức độ
phóng xạ quá cao.
TEPCO
đo được độ phóng xạ trên 1.000 mSv/h (> 1.000 millisievert mỗi giờ) ở mặt nước
trong tầng hầm của nhà lò số 2 vào ngày 26/03/2011. Một kết quả đo được trong nhà lò số 1
vào ngày 26/04/2011 là 1.120 mSv/h. Ngày 03/06/2011, người ta phát hiện thấy
có hơi nước thoát ra từ một khe hở trên nền nhà lò số 1, và đo được mức phóng xạ
kỷ lục từ 3.000 đến 4.000 mSv/h. Kỷ lục trên bị phá vào ngày
01/08/2011, khi phóng xạ đo được ở mức tối đa của thiết bị đo là 10.000 mSv/h.
Kết quả này thu được tại một đường ống thải nằm giữa nhà lò số 1 và nhà lò số
2, nó đã được dùng để xả áp từ bể chứa của lò số 1 vào ngày 12/03/2011. Ngày
02/08/2011 lại đo được 5.000 mSv/h trong một căn phòng ở tầng 2 của nhà lò số 1.
Để mường
tượng ý nghĩa của các con số kể trên, lưu ý rằng: Phần lớn các nước quy định mức
nhiễm xạ tối đa đối với những người làm việc trong môi trường có phóng xạ là
trung bình 20 mSv mỗi năm trong vòng 5 năm, với mức cao nhất là 50 mSv trong một
năm. Khi nhiễm xạ từ 100 mSv trở lên thì nguy cơ bị ung thư sẽ tăng rõ rệt. Vốn
dĩ, TEPCO dùng mức 100 mSv làm giới hạn trên cho liều nhiễm xạ của công nhân
tham gia cứu nạn, nhưng khi thảm họa Fukushima xảy ra thì TEPCO đã nâng giới hạn
này lên 250 mSv. Một nửa số người bị nhiễm xạ từ 3.000
đến 4.000 mSv sẽ bị chết trong vòng 30 ngày, nghĩa là chỉ cần tiếp xúc với nguồn
phóng xạ từ 3.000 đến 4.000 mSv/h trong khoảng 1 giờ thì người ta đã rơi vào
hoàn cảnh ấy. Khoảng 90% số người bị nhiễm xạ từ 4.000 đến 6.000 mSv sẽ bị chết
trong vòng 30 ngày. 100% số người bị nhiễm xạ từ 6.000 đến 10.000 mSv sẽ bị chết
trong vòng 14 ngày.
Đến
ngày 15/03/2011 thì cường độ phóng xạ ở nhà máy Fukushima Daiichi đã lên rất
cao. Chẳng hạn, cường độ phóng xạ trong môi trường ngoài trời ở giữa nhà lò số
3 và nhà lò số 4 là 400 mSv/h.
Nghĩa là: Chỉ cần
trụ trong môi trường đó 15 phút thì đã nhiễm phóng xạ tới mức nguy cơ bị ung
thư tăng rõ rệt (100 mSv), sau 37,5 phút thì đã nhiễm xạ tới mức tối đa mà
TEPCO mới quy định cho công nhân tham gia cứu nạn (250 mSv), và sau 15 giờ thì
không còn cơ hội sống (6.000 mSv). Tình hình vô cùng nguy hiểm, lúc nào cũng bị
những vụ nổ tiếp theo đe dọa. Phun nước làm lạnh thì chỉ một phần nhỏ đến được
nơi cần đến, lại làm cho hiện trường càng thêm bị lênh láng bởi thứ nước nhiễm
xạ trầm trọng. Hoàn toàn tuyệt vọng, TEPCO phải rút hầu hết lực lượng ra khỏi
khu vực nhà máy Fukushima Daiichi, chỉ để lại 50 người cảm tử để tìm cách hạn
chế thảm họa.
Nhật Bản
đã tạm thời tránh được kịch bản tệ hại nhất. Nhưng, xét trên tổng thể, việc
thoát khỏi thảm cảnh không phải nhờ vào sự tài giỏi của các nhà lãnh đạo, quản
lý, hay của các chuyên gia hạt nhân và công nhân Nhật Bản, mà vì vận may. Nói
theo tín ngưỡng, thì là nhờ Thượng Đế vẫn còn cho dân tộc Nhật Bản và thế giới
này một cơ hội.
Trên
đây chỉ là mấy lát cắt được đơn giản hóa từ khung cảnh hỗn loạn, giúp ta mường
tượng chút ít, xem con người ứng xử thế nào và làm được gì khi lâm vào thảm họa
hạt nhân. Bằng quyết định rút quân, lãnh đạo TEPCO đã mặc nhiên công nhận cái lẽ
giản đơn, mà bấy lâu nay họ vẫn cố tình phủ định: Với thảm hỏa hạt nhân cỡ
Chernobyl hay Fukushima, thì con người hoàn toàn bất lực, không có trí tuệ nào
có thể chèo chống, không có bộ máy quản lý nào có thể đương đầu, và mọi khả
năng công nghệ đều không đủ để chế ngự hoàn cảnh.
Khi lâm nạn hạt nhân, nước Nhật kiêu hãnh cũng trở nên lúng túng
như võ sĩ sumo tụt đai, bất lực như phượng hoàng trụi cánh. Vậy thì những nước
như Việt Nam sẽ ứng phó thế nào trong hoàn cảnh tương tự?
TEPCO
là tập đoàn sản xuất điện lớn nhất Nhật Bản, đang sở hữu 17 lò phản ứng hạt
nhân với tổng công suất phát điện là 17.308 MW, chiếm 40% tổng công suất phát
điện của toàn tập đoàn và khoảng 39% tổng công suất điện hạt
nhân của Nhật Bản. Mấy chục năm qua, các thế hệ lãnh đạo của TEPCO đã bao lần
cam đoan với nhân dân là các nhà máy điện hạt nhân của họ tuyệt đối an toàn, và
đem danh dự cùng trách nhiệm ra để thề thốt. Thảm họa Fukushima đã vạch trần sự
thật: Những
cam đoan bấy lâu nay về an toàn điện hạt nhân chỉ là nói lấy được, hoàn toàn
phi thực tế và nằm ngoài khả năng khống chế của những kẻ đại ngôn. Tiếc rằng: Trình
độ hiểu biết và ý thức trách nhiệm càng thấp bao nhiêu, thì lời hứa càng hùng hồn
bấy nhiêu.
Dù ở bất
cứ cương vị nào, thì mỗi người cũng chỉ là một mắt xích trong số hàng vạn mắt
xích, tham gia vận hành cỗ máy khổng lồ và quá phức tạp, mà chỉ cần một mắt bị
đứt là cỗ máy đã khựng lại, thậm chí có thể nổ tung. Trong lĩnh vực điện hạt
nhân, một sai sót cũng có thể khởi động dây chuyền sự cố, dẫn đến thảm họa. Đảm
bảo về hành động của bản thân trong suốt 10 năm tới đã là quá khó. Không ai có thể cam đoan
rằng một cộng đồng vô cùng đa dạng, gồm hàng nghìn, hàng vạn người mà mình
không hề quen biết, sẽ hành động chuẩn mực và hợp lý trong mọi hoàn cảnh, suốt
nửa thế kỷ. Không ai có thể cam đoan rằng mọi máy móc, thiết bị sẽ luôn hoạt động
hoàn hảo, bất chấp mọi thiên tai, địch họa. Vì vậy, cam đoan điện hạt nhân an
toàn là liều lĩnh và hoàn toàn vô trách nhiệm.
Trăm sự tại người
Nhà
máy điện hạt nhân Fukushima Daiichi được xây dựng trên một khu đất vốn dĩ cao
35 mét so với mực nước biển. Theo thiết kế ban đầu của Tập đoàn General
Electric thì cần hạ độ cao địa hình xuống tầm 20 mét, nhằm giảm chi phí bơm lượng
nước biển khổng lồ để làm lạnh lò phản ứng (chỉ riêng lò số 1 đã cần 20 tấn nước
mỗi giây). Nhưng với lối tư duy “hiệu quả kinh tế là trên hết”, rồi ngụy
biện rằng “nhà máy điện là nơi sản xuất điện, chứ không phải là nơi tiêu thụ
điện”, lãnh đạo TEPCO còn đi xa hơn nữa, đã quyết định thay đổi thiết kế, hạ
độ cao của khu vực xây dựng bốn tổ máy số 1 đến số 4 xuống chỉ còn 10 mét trên
mực nước biển. Hơn thế nữa, để giảm chi phí xây dựng, TEPCO đã bỏ qua các biện
pháp cần thiết để phòng tránh tác hại của sóng thần, mặc dù sóng thần đã nhiều
lần đổ bộ vào khu vực này và đã có những đề xuất rất cụ thể của các chuyên gia. Hậu quả là cơn sóng thần ngày
11/03/2011 đã nhấn bốn tổ máy số 1 đến 4 chìm sâu dưới nước 4–5 mét và hai tổ
máy số 5 và 6 chìm dưới nước 1–2 mét. Với quyết định thực dụng hạ thấp độ
cao địa hình xuống mức quá thấp, chính lãnh đạo TEPCO nhấn chìm 6 tổ máy điện hạt
nhân, chứ không thể đổ lỗi cho sóng thần.
Khi Hitachi
chế tạo thùng lò trị giá 250 triệu USD cho tổ máy số 4 của nhà máy Fukushima
Daiichi, thì thành của thùng lò đã bị biến dạng đến hơn 34 milimet. Theo quy định
thì phải hủy bỏ, nhưng Hitachi vẫn biến báo sản phẩm này và đưa vào sử dụng. Kỹ
sư Mitsuhiko Tanaka là một trong những người đã trực tiếp tham gia phi vụ này
và đã được Hitachi thưởng 3 triệu Yên cho công trạng “biến lợn què thành lợn
lành”. Sau thảm họa Chernobyl, lo rằng một tai họa hạt nhân tương tự sẽ giáng
xuống đầu nhân dân Nhật Bản, Tanaka đã thú nhận với Bộ Kinh tế, Thương mại và
Công nghiệp Nhật Bản về hành vi sai trái mười năm về trước của Hitachi. Nhưng
Hitachi phủ nhận, còn Chính phủ lại từ chối điều tra. May mà lò phản ứng số 4 tạm
ngừng hoạt động để bảo dưỡng trong thời gian xảy ra động đất ngày 11/03/2012,
nên “quả bom nổ chậm” (theo cách gọi của Tanaka) chưa phát tác.
Trong
thời gian làm việc cho Tập đoàn General Electric, kỹ sư hạt nhân Kei Sugaoka đã
tham gia bảo trì nhà máy Fukushima Daiichi hơn 20 năm. Trong lần kiểm tra vào
tháng 8/1989, ông và cộng sự phát hiện một vết nứt lớn trên bộ phận sấy hơi nước
trong lò phản ứng, thậm chí nó còn bị lắp ngược. Vì không muốn tốn tiền khắc phục,
TEPCO đã thông đồng với phía General Electric để dấu kín chuyện này. Họ buộc
ông Sugaoka phải xóa bỏ các đoạn video liên quan cùng mọi chứng cứ khác, và phải
ký vào bản báo cáo kiểm tra do TEPCO viết sẵn.
Ngoài
ba ví dụ vừa kể, còn có nhiều sai sót nghiêm trọng khác bị ém nhẹm để “tiết kiệm”
chi phí xây dựng và sửa chữa. Bất cứ công nghệ điện hạt nhân nào, nếu bị triển khai ẩu như vậy,
thì cũng không thể có được mức độ an toàn như ý đồ thiết kế.
TEPCO
đã ngụy tạo hồ sơ bảo dưỡng nhà máy Fukushima Daiichi suốt mấy thập kỷ và che dấu
hàng trăm sự cố. Kể cả sau khi đã bị phát hiện và lãnh đạo TEPCO phải từ chức
vào năm 2002, thì tệ nạn đó vẫn tiếp diễn. Trong báo cáo gửi NISA ngày
28/02/2011, TEPCO đã phải thú nhận rằng: Trong 11 năm qua đã không thực hiện kiểm
tra định kỳ 33 bộ phận của nhà máy điện hạt nhân Fukushima Daiichi, trong đó có
máy phát điện dự trữ, bơm làm lạnh, van kiểm tra nhiệt độ... “Đơn giản” như một cái ô tô mà vài
năm cũng phải kiểm tra, bảo dưỡng một lần. Vậy mà trốn tránh việc kiểm tra định
kỳ hàng loạt thiết bị quan trọng của nhà máy điện hạt nhân trong hơn chục năm,
rồi lại còn ngụy tạo hồ sơ bảo dưỡng. Máy móc dự trữ, dùng để thay thế trong những
tình huống khẩn cấp, mà suốt mười năm không được quan tâm, thì rất có thể chúng
đã bị hỏng từ trước khi có động đất và sóng thần. Thế thì tránh sao nổi tai họa?
Trên
đây là mấy ví dụ điển hình về những sai sót trầm trọng của con người trong cả
ba khâu thiết kế, chế tạo và vận hành ở nhà máy điện hạt nhân Fukushima
Daiichi. Chúng chỉ ra rằng, vì lợi nhuận, người ta có thể trở nên liều lĩnh và
bất chấp thế nào. Sai lầm tái diễn với tần suất cao, được khuếch đại bởi trí tuệ
“điếc không sợ súng” và tính ẩu không tránh khỏi, kể cả với người Nhật.
Sóng
thần thường được nhắc đến như nguyên nhân gây ra thảm họa hạt nhân Fukushima.
Điều đó khiến dư luận dễ thông cảm hơn với TEPCO và cũng đỡ lo hơn khi nghĩ đến
tương lai, vì sóng thần bất thường và hiếm hoi hơn động đất. Nhưng nhiều người
lại cho rằng: Không phải sóng thần, mà chính là động đất đã phá hỏng nhà máy
Fukushima Daiichi. Trên thực tế, sau khi động đất xảy
ra và trước khi sóng thần ập tới, thì hệ thống làm lạnh đã bị trục trặc, kéo theo quá trình nóng chảy nhiên liệu
hạt nhân, phóng xạ đã rò rỉ, và còn có nhiều sự cố khác, như đã điểm
qua ở phần trước.
Điều
gì đã gây ra thảm họa? Dù là do thiết kế sai vì đánh giá quá thấp sức phá hoại
của thiên tai, hay do chế tạo và xây dựng sai thiết kế, hay do vận hành và bảo
dưỡng sai quy trình, hay do quy trình không hợp lý, thì cũng đều có chung thủ phạm là con người! Động
đất và sóng thần chỉ đóng vai trò xúc tác, vạch trần sai phạm của con người. Dù không có thiên tai, thì sai sót của con người vẫn có
thể dẫn đến tai họa hạt nhân, mà thảm họa Chernobyl là một ví dụ điển hình. Trên thực tế, tuyệt đại đa số các tai
họa điện hạt nhân xảy ra trên thế giới đều do sai sót của con người và do trục
trặc kỹ thuật gây ra.
Trong chuyến viếng
thăm và xin lỗi dân làng Iitate ngày 01/05/2012, Phó chủ tịch TEPCO Norio
Tsuzumi thừa nhận rằng thảm họa hạt nhân Fukushima là do con người gây ra. Đây không phải là quan điểm
riêng của ông Tsuzumi, mà cũng là nhận định của nhiều người am hiểu khác. Phát
biểu tại Diễn đàn Kinh tế Thế giới (World Economic Forum) tại Davos, cựu Thủ tướng Naoto Kan,
người đã lãnh đạo nước Nhật chống chọi với thảm họa Fukushima, khẳng định rằng:
“Đó không phải là thảm họa
do thiên nhiên và cũng không phải do trục trặc kỹ thuật. Thảm họa này do con
người gây ra.”
Để
minh họa, ông Kan đề cập mấy ý: Thứ nhất, nguy cơ sóng thần đã bị đánh giá quá
thấp, nên mới có chuyện hạ địa hình nhà máy từ 35 mét xuống còn 10 mét. Thứ
hai, nhân viên của TEPCO hiểu biết quá ít về
cấu trúc bên trong và các chi tiết của lò phản ứng, vì họ tiếp nhận nhà máy từ Tập đoàn General
Electric dưới dạng “chìa khóa trao tay” và
khi bàn giao thì thiếu hụt thông tin. Thứ ba, trong xã hội Nhật
Bản ngự trị quan niệm sai lầm, cho rằng nhà
máy điện hạt nhân là tuyệt đối an toàn, và đó là một sự nhầm lẫn tập thể tai hại…
Mấy
chục năm qua, xã hội Nhật Bản đê mê trong cơn hoang tưởng về sự an toàn tuyệt đối
của điện hạt nhân, nên không chuẩn bị để ứng phó với một thảm họa như vậy. Những
đồ đệ của điện hạt nhân (trong giới quản lý, giới kinh doanh và giới kỹ thuật)
không chỉ lừa nhân dân, mà tự lừa chính mình. Giống như đám vệ sĩ đại ngôn,
luôn mồm khoe mẽ: “Có tôi đây thì mọi người cứ yên tâm mà ngủ, không kẻ gian
nào dám mò đến đâu.” Nhưng khi mọi người đã mơ màng, thì tráng sĩ cũng leo
lên giường và ngáy vang như sấm.
200
trang tài liệu nội bộ của TEPCO được NISA công bố ngày 24/10/2011 đã để lộ ra
nhiều sai sót chủ quan của TEPCO: Không có chuẩn bị đúng mức để đối phó với các
sự cố hạt nhân nghiêm trọng; không hề đề phòng tình trạng mất điện như đã xảy
ra, hay bất cứ một trường hợp mất điện kéo dài nào; cho rằng khi có sự cố
nghiêm trọng thì vẫn còn nguồn điện dự phòng để mở van xả áp và tiến hành các
thao tác an toàn khác...
Tổ
chức Sáng kiến Tái thiết Nhật Bản (Rebuild Japan Initiative Foundation) đã phỏng
vấn gần 300 chính trị gia, công chức, nhà quản lý và thu được bức tranh gây sửng
sốt: Những người có trách nhiệm của NISA (Cục An toàn Hạt nhân và Công nghiệp
Nhật Bản) không có kiến thức chuyên môn cần thiết về điện hạt nhân; lý do để sự
cố này trở nên nghiêm trọng như vậy là do người của TEPCO và Chính phủ thiếu
tinh thần trách nhiệm; thảm họa là kết quả của việc cố tình phớt lờ các nguy
cơ... Để chỉ ra huyền thoại an toàn hạt nhân đã làm cho giới công nghiệp hạt
nhân trở nên mù quáng và vô trách nhiệm thế nào, Giáo sư Kunio Yanagida thuộc Hội
đồng Chính phủ về Thảm họa Fukushima đã nêu ví dụ về Trung tâm Cấp cứu Nguyên tử
ở Fukushima: Sau khi động đất và sóng thần xảy ra, những người giám sát an toàn
nguyên tử đã không vào được trung tâm ấy, vì lối vào không đi được, và hệ thống
cấp khí của trung tâm cũng không có bộ lọc chất phóng xạ.
Trong
bức thư ngỏ gửi Thủ tướng Yoshihiko Noda, đăng trên The Japan Times Online dưới
nhan đề “Noda, hãy đập tan ‘làng hạt nhân’ ấy đi”, Chris Rowthorn đã nêu ra một
số nguyên nhân khiến điện hạt nhân không thể an toàn ở Nhật Bản. Nguyên nhân được
nhắc đến đầu tiên là hệ thống amakudari (hạ cánh từ thiên đàng),
chỉ việc các quan chức cao cấp của chính phủ sau khi rời chức vụ thì được nhận
những cương vị quản lý hấp dẫn trong các tổ chức kinh tế mà họ đã từng quản lý.
Ví dụ điển hình là: Từ năm 1959 đến 2010, TEPCO có 4 Phó chủ tịch đã từng là
quan chức của cơ quan quản lý an toàn hạt nhân NISA. Để chuẩn bị nơi hạ cánh
thì không ai lại “dại dột gây gổ” với chốn nương thân tương lai. Và khi đã công
khai thành người của TEPCO thì họ vẫn duy trì được quan hệ truyền thống trên-dưới
với những quan chức trẻ kế nhiệm ở NISA. Vì vậy, khó mà có được quan hệ rạch
ròi giữa phía quản lý và phía bị quản lý. Cùng với những khoản chi “ngoại giao”
hậu hĩnh, hệ thống amakudari giúp cho các tập đoàn kinh tế có thể điều
khiển được các quan chức chính phủ, thay vì ngược lại. Một nguyên nhân khác được
đề cập là hệ thống hàn lâm tham nhũng. Theo Chris Rowthorn, ngành công
nghiệp hạt nhân Nhật Bản đã tài trợ hào phóng cho các cơ sở đào tạo, nghiên cứu
và các nhà khoa học để tác động lên quan điểm của họ về điện hạt nhân. Nhiều
giáo sư và nhà quản lý của Tokyo University (Todai) sau khi rời trường đại học
đã “hạ cánh” ở TEPCO (một dạng amakudari hàn lâm), trong đó có Hiroshi
Komiyama, nguyên Hiệu trưởng của Todai. Kết quả cộng tác chặt chẽ của giới hàn
lâm là tầng lớp tinh hoa Nhật Bản được giáo dục tình thần ủng hộ điện hạt nhân,
trong khi các nghiên cứu về tác hại của điện hạt nhân bị hạn chế, thậm chí bị
ngăn cản.
“Làng
hạt nhân” (nuclear
village), mà Rowthorn kêu gọi Thủ tướng Noda “hãy đập tan”, không phải
là một ngôi làng bình thường với những người lao động cần mẫn. Đó là biệt danh
của màng lưới lợi ích đầy quyền lực, bao gồm những cá nhân và tập thể có
quyền lợi gắn chặt với điện hạt nhân, đến từ các tập đoàn công nghiệp, mà trung
tâm là TEPCO, từ bộ máy chính phủ và quốc hội, từ giới khoa học, giới tài phiệt
và bộ máy truyền thông. Cái “làng” ấy có thể “thôi miên” bộ máy quản lý, có thể
lái quốc hội và chính phủ trong việc ban hành văn bản quy phạm pháp luật và hoạch
định chính sách điện hạt nhân, có thể đạo diễn để cất nhắc
hay hạ bệ các chính trị gia cao cấp, và có thể đưa cả đối thủ vào chốn tù ngục. Vai trò mấu chốt của “làng hạt
nhân” dẫn tới thảm họa Fukushima là điều rõ như ban ngày, không thể phủ nhận
được. Không chỉ dừng lại ở hậu quả đã đem lại cho xã hội Nhật Bản, họ đang tìm
cách vươn ra nước ngoài, mà mục tiêu chinh phục đầu tiên là Việt Nam và trận mở
màn là dự án điện hạt nhân Ninh Thuận 2.
Đoạn kể trên mới
chỉ là mấy nét phác họa sơ sài, nhưng cũng đủ để giúp ta hiểu hơn nhận xét của
cựu Thủ tướng Naoto Kan về vai trò của thảm họa Fukushima:
“Gorbatschow viết trong hồi ký
rằng tai họa Chernobyl đã phơi bày tình trạng bệnh
tật của xã hội Xô Viết. Tai họa Fukushima cũng đóng vai trò tương tự
đối với Nhật Bản.”
Đừng lầm tưởng rằng
mọi người đã khôn ra sau thảm họa này và sẽ không tái phạm những lỗi lầm cũ.
Đánh giá về quá trình kiểm tra an toàn các lò phản ứng hạt nhân ở Nhật Bản sau
thảm họa Fukushima, Giáo sư Hiromitsu Ino, một thành viên của hội đồng cố vấn
cho NISA, phàn nàn rằng:
“Toàn bộ quá trình đang được tiến hành
giống hệt như trước tai họa Fukushima Daiichi, mặc dù tai họa đã chỉ ra rằng
các hướng dẫn và tiêu chuẩn đó là không đầy đủ.”
Ông
Masashi Goto, một nhà thiết kế lò phản ứng hạt nhân tham gia hội đồng cố vấn
cho NISA, phản ánh rằng: Báo cáo kết quả kiểm tra an toàn của 14 lò phản ứng đã
được gửi tới NISA, nhưng không một cuộc kiểm tra nào được tiến hành với kịch bản
nhiều tai họa thiên nhiên xảy ra cùng một lúc (ví dụ như sóng thần kèm theo động
đất), và các cuộc kiểm tra an toàn ấy đã được kết thúc ngay cả khi nguyên nhân
của sự cố nóng chảy nhiên liệu hạt nhân và của các vụ nổ khí hyđrô ở nhà máy điện
hạt nhân Fukushima Daiichi còn đang được điều tra. (Chưa xác định được nguyên
nhân của hai sự cố ấy ở Fukushima Daiichi thì tất nhiên không thể khẳng định rằng
các nhà máy khác sẽ không lặp lại sự cố tương tự.) “Các cuộc kiểm tra chỉ
đơn thuần là mô phỏng trên bàn giấy một cách lạc quan, dựa trên giả thiết rằng
mọi thứ sẽ xảy ra đúng như dự kiến” – ông Goto bình luận, và tiết lộ thêm rằng:
Kịch bản kiểm tra không bao gồm sai sót của con người, sai sót thiết kế, hay
kết hợp cả hai. Vì sao họ có thể mắc tiếp những lỗi thô thiển như vậy? Một
lý do quan trọng là vì nhiều người tham gia có quyền lợi mâu thuẫn với nhiệm
vụ kiểm tra. Ấy vậy mà Chính phủ Nhật bản
cũng cho qua và vận động chính quyền các địa phương liên quan đồng ý cho mấy lò
phản ứng hạt nhân, được coi là đã kiểm tra an toàn, hoạt động trở lại. Rõ ràng
là: Những người có trách nhiệm, từ cấp cơ sở đến chính phủ, vẫn không chịu
nghiêm túc rút kinh nghiệm, tiếp tục tái phạm những sai lầm chết người, đã từng
góp phần gây ra thảm họa Fukushima.
Những
điều kể trên chỉ ra rằng: Về mặt trình độ và tập quán, con người rất khó vượt
ra khỏi cái bóng của mình. Về mặt động cơ, con người thường bị chi phối bởi lợi
ích cá nhân. Bị hạn chế ở cả bộ não và trái tim, nên “ngựa quen đường cũ”, dù mới
trải qua thảm họa nhưng vẫn đủng đỉnh lối xưa. Với cách tư duy và hành
động như vậy, một thảm họa hạt nhân tiếp theo đã được lập trình sẵn. Có thể nó
chưa tái diễn ngay trên đất Nhật, nhưng lại xảy ra ở đâu đó trên thế giới, nơi
mà người Nhật xây dựng nhà máy điện hạt nhân.
Để khỏi mang tiếng
là đánh giá quá thấp người Nhật, ta trích ra đây kết luận của Chủ tịch Ủy ban điều tra độc lập về thảm họa
hạt nhân Fukushima của Quốc hội Nhật Bản (NAIIC), Tiến sỹ Kiyoshi Kurokawa, trong
thông điệp mở đầu bản báo cáo tổng kết gần 7 tháng điều tra và được đệ trình Quốc
hội Nhật Bản vào ngày 05/07/2012:
“Điều phải thừa nhận – dù rất đau
đớn - là thảm họa này được ‘sản xuất tại Nhật Bản’
(made in Japan). Nguyên nhân gốc rễ của nó nằm ở
những tập quán đã ăn sâu vào văn hóa Nhật Bản: Sự phục tùng mang
tính phản xạ, sự e ngại chất vấn người có quyền lực, xu hướng bảo lưu cái cũ,
chủ nghĩa phe nhóm và tính ốc đảo của chúng ta.”
Thật là vô vọng,
khi Tiến sỹ Kurokawa (người đã từng là Chủ tịch Hội đồng Khoa học Nhật Bản) viết
tiếp rằng:
“Nếu người Nhật khác xỏ chân
vào đôi giày của những người phải chịu trách nhiệm cho thảm họa này thì kết quả
có thể cũng đúng như vậy.”
Dù
sao đi nữa thì người Nhật cũng vẫn được coi là vượt trội về nhiều phương diện,
kể cả trình độ, tác phong công nghiệp, tính cộng đồng và lòng tự trọng. Điều
đáng nói là: Nếu vượt trội như người Nhật mà
còn như thế, thì các dân tộc khác sẽ thế nào? Đối với người Việt,
phải đặt thêm câu hỏi: Người Nhật có thể mắc
những sai lầm như thế đối với nhà máy của chính họ, trên quê hương của họ, thì
nhà máy điện hạt nhân do họ xây ở Việt Nam sẽ thế nào?
Rùng
rợn thay, TEPCO đã phạm những lỗi tày trời và
gây ra thảm họa cho dân tộc Nhật Bản như thế, mà theo kế hoạch ban đầu –
được tiết lộ trên The Japan Daily Press ngày 28/06/2012 – thì kỹ sư của TEPCO sẽ vận hành và dạy nghề tại nhà máy
điện hạt nhân ở Ninh Thuận và kỹ sư Việt Nam sẽ đến học nghề trong các nhà máy
điện hạt nhân của TEPCO. Nếu vậy thì các
kỹ sư và công nhân đầu đàn người Việt được đúc từ khuôn mẫu TEPCO sẽ có thể gây
ra những hậu quả gì trên đất Việt đã quá nhiều đau thương này?
Một cộng đồng lớn không thể tránh khỏi mọi sai sót – đó là hạn
chế cố hữu của loài người. Vì không thể tách khỏi yếu tố con người trong suốt
quá trình thiết kế, chế tạo, thi công và vận hành, bất kỳ công nghệ điện hạt
nhân nào, dù là sử dụng lò phản ứng thế hệ II, hay thế hệ III, hay III+, thì
cũng bị chi phối bởi những sai sót của con người, và do đó cũng không thể tránh
được tai họa hạt nhân.
Tư duy tầm “thương nhân”
Điều
gì khiến lỗi lầm luôn tái diễn trong một lĩnh vực đòi hỏi phải rất nghiêm túc,
rất thận trọng, như điện hạt nhân? Bên cạnh hạn chế về trình độ và tập quán, động
cơ chạy theo lợi ích cục bộ đóng một vai trò quyết định. Bản thân “lợi ích”
không có tội, ngược lại nó còn là động lực phát triển của xã hội. Nhưng nếu nó
bị chi phối, bị điều khiển bởi tính “cục bộ” thì lại thành vấn đề. Với
tư duy “lợi ích riêng tư là trên hết”, thì cứ có lợi cho mình hay phía mình
là làm, cho dù có thể gây bất lợi cho người khác hay ảnh hưởng xấu cho cộng đồng.
TEPCO đặt lợi nhuận lên hàng đầu, nên “tiết kiệm” được bao nhiêu hay bấy nhiêu,
dù để lại hậu quả nặng nề cho xã hội. Những người làm việc cho TEPCO quan tâm
nhất tới chỗ làm ổn định với đồng lương cao, tức là quyền lợi bản thân, nên họ
làm ngơ trước sai phạm của cấp trên và đồng nghiệp, thậm chí sẵn sàng tòng phạm,
mặc dù điều đó có hại cho cộng đồng. Cái lợi thu được thì mình họ hưởng, nếu
tai họa xảy ra thì đã có cộng đồng cả nước cùng gánh chịu. Kể cả khi đề cao lợi
ích dân tộc thì chưa chắc đã thoát khỏi tính cục bộ, chẳng hạn không chấp nhận
phát triển điện hạt nhân trong nước, nhưng lại sẵn sàng xuất khẩu ra nước
ngoài. Về mặt thời gian, tính cục bộ thể hiện ở tư duy “vì lợi ích trước
mắt”, bất
chấp lợi ích lâu dài. Nếu sớm kiếm được nhiều tiền, có thể đút ngay vào túi,
thì không chút chần chừ. Còn những chuyện “xa vời”, ví dụ như giải quyết vấn đề
chất thải hạt nhân thế nào, thì họ không quan tâm.
Xin
mượn cụm từ “tầm thương nhân” để chỉ lối tư duy “lợi ích cục bộ”
đó. Tạm gọi như vậy, khi chưa tìm được từ nào thích hợp hơn, chứ thực ra thì
nhiều khi thương nhân cũng tư duy ở “tầm chính khách”, và ngược lại,
chính khách cũng hay tư duy ở “tầm thương nhân”.
Qua
trao đổi ở phần trên, ta thấy rằng kiểu tư duy “tầm thương nhân” của các
nhà quản lý (kể cả lãnh đạo quốc gia), của các nhà kinh doanh và các nhà kỹ thuật…
là một trong những yếu tố quyết định dẫn đến thảm họa hạt nhân Fukushima. Cũng
chính vì kiểu tư duy ấy, mà sau thảm họa hạt nhân nhiều người có trách nhiệm ở
Nhật Bản vẫn tiếp tục hành động giống như trước khi xảy ra thảm họa.
Tư
duy “tầm thương nhân” xuất hiện mọi nơi, trong mọi tầng lớp, và trước hết
là ở những người đang đại diện cho phía bán hàng. Khi Andrei Grigorievich
Kotun, Đại sứ Liên bang Nga tại Việt Nam, khẳng định phía Nga hoàn toàn chịu
trách nhiệm về sự an toàn của nhà máy điện hạt nhân Ninh Thuận 1 (do Nga
thiết kế và xây dựng, dự kiến khởi công vào năm 2014), ấy là lúc ông chỉ nghĩ đến hợp
đồng béo bở cho phía Nga. Một kiểu nói lấy được, miễn là bán được hàng, bởi lời
hứa đâu mất tiền mua. Đúng là ông đang thay mặt cho nước Nga thật, nhưng bộ máy
chính trị và kinh tế khổng lồ ấy vận hành thế nào thì đâu phải do một chính trị
gia cỡ ông quyết định. Hơn nữa, ngay cả những nhà máy điện hạt nhân xây trên đất
Nga hay Liên Xô (cũ) thì cũng đã từng gây ra thảm họa, huống hồ ở mảnh đất
phương nam xa xôi. Giả sử sau này cái tên Ninh Thuận sẽ trở nên nổi tiếng thế
giới, đứng cạnh Chernobyl và Fukushima trong danh sách thảm họa hạt nhân, thì
cá nhân Andrei Grigorievich Kotun nói riêng và phía Nga nói chung sẽ chịu trách
nhiệm kiểu gì? Hẳn lúc ấy ông đã rời xa xứ sở đau thương, có thể đang an hưởng
tuổi già dưới rặng bạch dương, và những người kế nhiệm sẽ phẩy tay: “Ông ấy
nói bừa, sao các bạn lại tin?”
Lúc
nói “việc xây dựng nhà máy điện hạt nhân là quyết định của Chính phủ Việt
Nam và nhân dân Việt Nam, chúng tôi tôn trọng điều đó”, có lẽ ông Hirofumi Miyake,
Tham tán kinh tế của Đại sứ quán Nhật Bản tại Việt Nam, muốn che dấu khát vọng
thương nhân của phía mình. Có khác tí chút là ở chỗ: Để tăng tính thuyết phục,
ông đã vận dụng thêm mánh khóe chính trường, là gán cái quyết định “xây dựng
nhà máy điện hạt nhân” cho cả “nhân dân Việt Nam”, mặc dù khi đã đi
sứ ở xứ này thì ông thừa biết, nhân dân đâu được quyền tham gia quyết định.
Hùng
hồn tuyên bố công nghệ điện hạt nhân mà họ sẽ triển khai ở Ninh Thuận là “an
toàn nhất thế giới”, ông Sergey A. Boyarkin (Phó Tổng giám đốc Tập đoàn
ROSATOM của Nga, dự định sẽ xây dựng nhà máy điện hạt nhân Ninh Thuận 1) và ông Junichi Kawahata (Tập đoàn
Hitachi của Nhật Bản, dự định sẽ tham gia xây dựng nhà máy điện hạt nhân Ninh
Thuận 2) cứ làm như đất nước của họ
không liên quan gì đến 3 thảm họa điện hạt nhân lớn nhất trong lịch sử nhân loại, đã xảy ra ở Kyshtym (Nga, 1957),
Chernobyl (Liên Xô cũ, Ucraina bây giờ, 1986) và Fukushima (Nhật Bản, 2011).
Thôi thì họ đại ngôn cũng là chuyện thường tình, bởi họ chính là thương nhân.
Hàng của ai mà chả tốt và rẻ nhất chợ. Buồn một nỗi là nhiều người lại đặt hết
niềm tin vào nơi chợ búa. Hơn nữa, một số người Việt còn sốt sắng “đóng nhầm
vai”. Đại diện cho bên mua, mà lại tung hô như thể mình đang rao bán.
Cần
lưu ý thêm về sự ranh mãnh khi họ chọn chữ “nhất” để đặt vào cụm từ “an
toàn nhất thế giới”. Chữ “nhất” trong khuôn khổ “thế giới”
làm cho những người nghe nhẹ dạ sướng đê mê, tưởng rằng còn “trên cả an
toàn”. Nhưng nó lại cho phép kẻ phát ngôn dễ dàng thoát khỏi mọi trách nhiệm
khi xảy ra thảm họa, bởi lẽ “an toàn nhất” – trong hoàn cảnh không thể
có “an toàn tuyệt đối” – không có nghĩa là “an toàn”, cũng giống
như “kẻ tốt nhất trong đám vô lương” không có nghĩa là “người tốt”.
Trong
cộng đồng ủng hộ việc xây dựng nhà máy điện hạt nhân ở Việt Nam, bên cạnh không
ít tâm hồn trong sáng, thành tâm tin vào sự cần thiết và sự an toàn của điện hạt
nhân, thì cũng có nhiều đầu óc vụ lợi. Một số người nhìn nhận đó là một cơ hội
“làm ăn lớn” hiếm hoi, háo hức chờ đợi để tham gia bữa đại tiệc chia chác. Vốn
khủng thì phần trăm đút túi cũng khủng, lại có thể bám vào lý do bí mật công
nghệ hạt nhân để cản trở xoi mói và điều tra. Số khác thì có thể “khiêm tốn”
hơn, chỉ mong có cơ hội để thực hành cái nghề hiếm mà mình đã được đào tạo bấy
lâu, song chưa có dịp trổ tài. Còn hậu quả thế nào thì không “nằm trong vùng phủ
sóng” của họ.
Một
người mang danh nhà khoa học, tuyên truyền rằng điện hạt nhân an toàn, “nếu
có sự cố xảy ra thì tất cả các chất phóng xạ sẽ bị giam hãm trong nhà lò phản ứng
không phát tán ra bên ngoài”, trong khi trên thực tế thì
có thể buộc phải xả áp, như ở Fukushima, và chất phóng xạ có thể bị phát tán xa
hàng nghìn km. Hơn thế nữa, để thuyết phục dư luận là điện hạt nhân rẻ, ông còn
phóng đại lên rằng: “Thường tuổi thọ của nhà máy điện hạt nhân là cả trăm
năm”, trong khi, theo thông tin của
Hiệp hội Hạt nhân Thế giới (World Nuclear
Association),
phần lớn các nhà máy điện hạt nhân được thiết kế cho tuổi thọ 25 đến 40 năm, và đối với những lò phản ứng
hạt nhân thế hệ 3 đang vận hành hoặc đang được xây dựng trên thế giới thì thời
gian hoạt động thông thường theo thiết kế là 60 năm. Khi tuyên truyền như vậy, hẳn
nguyên Viện trưởng Viện Năng
lượng nguyên tử Việt Nam
và tân Cục trưởng Cục An toàn bức xạ và Hạt nhân (thuộc Bộ Khoa học và Công nghệ) đã bỏ qua tri thức và thể hiện tư
duy “tầm thương nhân”.
Một lãnh đạo của Bộ Khoa học và Công nghệ khẳng định rằng:
“Nếu như không có những sự cố khủng
khiếp như thảm hoạ kép động đất, sóng thần thì các nhà máy điện hạt nhân có thể
nói là an toàn và kinh tế hơn so với các nhà máy điện khác.”
Nói
như vậy thì hàm lượng chân lý cũng tựa như mệnh đề: “Nếu như không có những
hậu quả khủng khiếp như tai họa kép gây nghiện và chết chóc thì ma túy có thể
nói là an toàn và kinh tế hơn so với các thứ giải trí khác.” Đó hẳn là một
phát ngôn bị tư duy “tầm thương nhân” chi phối.
Vậy
thì biết tin vào ai, khi phải đưa ra những quyết định liên quan đến
điện hạt nhân?
Để trả lời câu hỏi “làm điện hạt nhân thế nào”, thì tất nhiên phải hỏi
các chuyên gia về điện hạt nhân và những người kinh doanh công nghệ này. Chỉ có
họ mới có thể chỉ ra phải thiết kế, chế tạo, thi công và vận hành nhà máy điện
hạt nhân như thế nào. Nhưng nếu muốn trả lời câu hỏi “có làm điện hạt nhân hay không”, thì
các nhà lãnh đạo quốc gia không thể dựa hẳn vào ý kiến của những người có quyền
lợi gắn liền với việc triển khai điện hạt nhân. Đa số những người đang mong làm điện
hạt nhân để có đất dụng võ và được hưởng lợi sẽ trả lời là “nên làm”.
Khi động cơ và câu trả lời đã quá rõ như vậy, mà các nhà lãnh đạo vẫn hỏi và vẫn
dựa vào lập luận của họ để làm cơ sở ra quyết định, thì hoặc là phạm lỗi tư
duy, hoặc là cố ý cùng nhau diễn kịch, trong bối cảnh chia sẻ quyền lợi.
Tư duy tầm chính khách
Ngược
lại với tư duy “tầm thương nhân”, ta dùng thuật ngữ “tầm chính khách”
để chỉ lối tư duy nhìn xa, trông rộng và coi trọng lợi ích chung, tất nhiên
không phải là cái chung của một nhóm hay băng đảng, mà là cái chung chứa cả dân
tộc, và không chỉ dừng lại ở phạm vi dân tộc. Đấy là tư duy mà chính khách chân
chính cần phải có.
Trong những ngày
tháng vật lộn với thảm họa hạt nhân Fukushima, trên cương vị Chánh văn phòng
Chính phủ và là cánh tay phải của Thủ tướng thời đó, ông Yukio Edano là đầu mối
quan trọng trong việc cung cấp thông tin cho nhân dân Nhật Bản và cho thế giới.
Với cống hiến không mệt mỏi, ông đã trở thành người hùng của bao người dân. Chính thời gian thiếu ngủ ấy
cùng thực tế phũ phàng đã đánh thức và trao cho ông một tầm nhìn mới về điện hạt
nhân. Để rồi hôm nay, trên cương vị Bộ trưởng Bộ Kinh tế, Thương mại và Công
nghiệp trong Chính phủ đương nhiệm của Thủ tướng Yoshihiko Noda, trực tiếp phụ
trách vấn đề năng lượng, ông Edano có đủ cơ sở vững chắc để tuyên bố dứt khoát
trong buổi họp báo ngày 06/04/2012 ở Tokyo rằng:
“Nhật Bản cần phấn đấu
rút hoàn toàn khỏi điện hạt nhân.”
“Chính sách của Chính
phủ là ngay bây giờ phải giảm sự phụ thuộc vào điện hạt nhân xuống mức thấp
nhất như có thể.”
“Tôi muốn cắt giảm mức
phụ thuộc vào điện hạt nhân xuống số không. Tôi muốn có một xã hội vận hành
không có điện hạt nhân càng sớm càng tốt.”
Thông
điệp trên càng trở nên sâu sắc, khi nó được phát ra đúng vào thời điểm mà bản
thân ông Edano đang phải lo vận động chính quyền các địa phương liên quan đồng
ý cho tái khởi động một số lò hạt nhân đã qua kiểm tra an toàn, để hạn chế thiếu
hụt điện năng vào thời gian cao điểm trong mùa hè đang tới.
Phát biểu trên thể
hiện chính sách của Chính phủ đương nhiệm và được tiếp thu từ bài học xương máu
của Chính phủ tiền nhiệm. Trong diễn văn đọc ngày 06/08/2011 tại buổi tưởng niệm
lần 66 ngày Mỹ ném bom nguyên tử xuống Hiroshima, Thủ tướng Nhật Bản thời đó
Naoto Kan đã bày tỏ:
“Tôi hối tiếc sâu sắc là
đã từng tin vào huyền thoại về sự an toàn của điện hạt nhân.”
Là người đã tốt
nghiệp ngành Vật lý tại Tokyo Institute of Technology, ông Kan có khả năng hiểu
về công nghệ hạt nhân hơn hẳn phần lớn các chính trị gia khác. Vì vậy, ý kiến của ông rất
đáng để các chính khách trên toàn thế giới tham khảo. Với nhận thức sâu sắc đúc
kết từ thảm họa Fukushima, ông đã khẳng định:
“Nhật Bản sẽ giảm mức lệ thuộc
vào điện hạt nhân, với mục tiêu là trở thành một xã hội không phụ thuộc vào điện
hạt nhân.”
Điều gì đã đưa một
người vốn nhiệt thành ủng hộ điện hạt nhân đến với nhận thức như vậy? Trên
cương vị Thủ tướng, trực tiếp lãnh đạo quá trình vật lộn với thảm họa
Fukushima, ông đã chứng kiến tất cả: Sức tàn phá khủng khiếp của thiên nhiên, sự
bất lực của con người và công nghệ, hậu quả nặng nề vượt mọi khả năng tưởng tượng
của thảm họa hạt nhân... Một năm sau, trong buổi trả lời phỏng vấn Reuters ngày
17/02/2012, vị cựu Thủ tướng giãi bày:
“Trải qua thảm hỏa
hạt nhân 11/03/2011, tôi đã thay đổi cách nghĩ của mình. Yếu tố tác động lớn
nhất là: Đã có thời điểm chúng tôi phải đối mặt với hoàn cảnh mà mọi
người có thể không sống nổi trong khu vực thủ đô, bao gồm cả Tokyo, và phải sơ
tán.”
Đó là lúc ông đối
mặt với nguy cơ “con người không thể sống trên dải đất rộng 200–300 km”.
Hãy tưởng tượng xem: Riêng khu vực quanh thủ đô Tokyo đã phải sơ tán hơn 35 triệu
người... Bằng cách nào? Sơ tán đi đâu? Thu xếp nơi ăn, chốn ở cho họ như thế
nào? Rõ ràng là một cảnh đại loạn, vượt quá mọi khả năng thu xếp. “Điều gì sẽ
xảy ra đối với đất nước Nhật Bản?” – ông Kan tự hỏi và trả lời:
“Nếu xảy ra tình trạng ấy,
không chỉ cộng đồng phải gánh chịu khổ ải, mà cả sự tồn
tại của Nhật Bản cũng bị đe dọa.”
Trong một hoàn cảnh
khác, Naoto Kan còn thổ lộ là:
“Vấn đề không chỉ
là chúng tôi mất một nửa lãnh thổ, mà còn rải phóng xạ ra phần còn lại của thế
giới.”
Hóa
ra, thảm cảnh thực tế còn tệ hại gấp bội lần so với những điều mà dư luận được
biết. Để tránh hoảng loạn xã hội, ông Kan cùng cộng sự đã phải dấu thực trạng
và âm thầm gánh chịu một trách nhiệm quá khủng khiếp, liên quan đến sự tồn vong của cả dân tộc. Nếu đã từng trải
qua cơn ác mộng vô cùng kinh khủng ấy, như ông Kan, bất cứ một tâm hồn lành mạnh
nào cũng phải đi đến quyết định khước từ điện
hạt nhân, vì không thể đem sự tồn tại của cả dân tộc để đặt cược cho một canh bạc
bị chi phối bởi lợi ích nhóm.
Trong canh bạc ấy, chỉ có lợi ích nhóm là hiện hữu, còn lợi ích cộng đồng thì
chỉ sót lại nếu không gặp phải thảm họa, và nó cũng không bù nổi món nợ để lại
cho các thế hệ mai sau, dưới dạng chất thải hạt nhân, mà cho đến nay thế giới vẫn
chưa thiết lập được những kho chứa vĩnh viễn.
Cựu Thủ tướng
Naoto Kan đã rút ra bài học sâu sắc, như khẳng định trong buổi tường trình trước
Quốc hội Nhật Bản ngày 28/05/2012:
“Không thể đảm bảo an
toàn đến mức đủ để tránh được nguy cơ sụp đổ dân tộc.”
“Tai họa đã trải
qua làm cho tôi tin rằng con đường tốt nhất để
làm cho các nhà máy điện hạt nhân trở nên an toàn là không dựa vào
chúng, mà cần loại bỏ chúng đi.”
Một
bài học nữa cần rút ra ở đây là: Trên cương vị lãnh đạo tầm quốc gia, không thể
chỉ sa đà vào tư duy tầm kỹ thuật, mà phải biết tư duy tầm triết lý. Đối với vấn
đề an toàn điện hạt nhân, không thể chỉ dừng lại ở việc lựa chọn công nghệ nào,
mà phải đặt ra câu hỏi mang tính triết học là: Có
tồn tại một công nghệ tuyệt đối an toàn trong mọi hoàn cảnh hay không? Cụ thể hơn: Có thể
tạo ra một thứ công nghệ hạt nhân chống chọi được với mọi hoàn cảnh thiên tai,
địch họa và hoàn toàn không bị phụ thuộc vào các sai sót thường tình của con
người hay không? Thảm họa Fukushima nối
tiếp thảm họa Chernobyl minh họa cho câu trả lời dứt khoát: Không!
Con người không bao giờ tránh được mọi sai sót, và sai sót có thể
gây ra sự cố. Trong các lĩnh vực khác, sự cố thường chỉ dừng lại ở một mức độ
nhất định và người ta có thể khắc phục từ từ. Nhưng sự cố trong lĩnh vực điện hạt
nhân thì có thể nhanh chóng vượt ra khỏi tầm kiểm soát và dẫn đến tai họa cực kỳ
nghiêm trọng, gây hậu quả nặng nề trên không gian quá rộng và trong thời gian
quá dài. Do đó, nguy cơ thảm họa luôn đi kèm với điện hạt nhân.
Nếu xảy ra thảm họa điện hạt nhân, con người sẽ trở nên chơi
vơi, bất lực, và hậu quả của nó có thể vượt mọi tầm tưởng tượng, thậm chí có thể
đe dọa sự tồn vong của dân tộc, hay của cả loài người. Chính vì vậy, nếu chưa
dính đến điện hạt nhân thì không nên triển khai, còn nếu đang sử dụng điện hạt
nhân thì phải giảm dần để tiến tới thoát hoàn toàn khỏi vòng kiềm tỏa của nó.
Đó
bài học quá đắt mà những người trong cuộc như cựu Thủ tướng Naoto Kan và Bộ trưởng
Yukio Edano phải rút ra được từ thảm họa Fukushima. Đó cũng là bài học sâu sắc
mà các nhà lãnh đạo trên toàn thế giới cần phải nghiêm túc lĩnh hội.
Nếu
xảy ra thảm hỏa hạt nhân, thì các nhà lãnh đạo quốc gia phải chịu trách nhiệm
trước dân tộc và trước nhân loại, không thể quay ra đổ lỗi cho giới chuyên môn, cho dù một
số người trong số họ đã từng tung hô, cổ động cho việc triển khai điện hạt
nhân. Đó là thông điệp mà cựu Thủ tướng Nhật Bản Naoto Kan muốn nhắn gửi đến
các đồng nghiệp lãnh đạo trên toàn thế giới, khi trả lời câu hỏi “ai phải chịu
trách nhiệm về khủng hoảng hạt nhân Fukushima”:
“Tôi nghĩ trách
nhiệm lớn nhất thuộc vào các thế hệ chính phủ đã xúc tiến điện hạt nhân...”
Hoàn
toàn đúng như vậy! Các nhà lãnh đạo quốc gia
phải ý thức được trách nhiệm không thể chối bỏ này, để vận dụng tư duy “tầm
chính khách”, thay cho tư duy “tầm thương nhân”, khi cân nhắc và đưa ra quyết định
về vấn đề xây dựng hay duy trì nhà máy điện hạt nhân.
Thực tại bất an
Tiếc
rằng, quá nhiều người, trong đó có rất nhiều chính trị gia, vẫn tỏ ra hoàn toàn
bàng quan, theo kiểu: “Họa người người chịu, việc ta ta làm.” Thậm chí, khi thảm
họa hạt nhân Fukushima vừa mới xảy ra, nhân loại còn chưa kịp hoàn hồn, người
Nhật còn chưa biết có thể thoát ra khỏi thảm họa hay không và thoát bằng cách
nào, thì có vị đã hấp tấp khẳng định rằng Việt Nam vẫn sẽ tiến hành xây dựng
hai nhà máy điện hạt nhân ở Ninh Thuận như dự kiến. Điều đó thể hiện cả sự liều
lĩnh lẫn ngu dốt. Liều lĩnh cộng hưởng với
ngu dốt là mầm gieo đại họa hạt nhân.
Thảm
họa Fukushima mới xảy ra hơn một năm, mà đối với nhiều người thì dường như nó
chỉ còn là chuyện dĩ vãng, tưởng như không bao giờ lặp lại. Họ không biết rằng
khủng hoảng vẫn chưa kết thúc. Một quả bom hẹn giờ vẫn đang tích tắc, đe dọa
toàn nhân loại. Nhờ đang dừng hoạt động để bảo dưỡng định kỳ, nên lò số 4 tránh
được tai họa do thùng lò bị làm ẩu, như đã kể ở trên. Nhưng cũng chính vì thế
mà toàn bộ số nhiên liệu hạt nhân đang dùng dở được dồn hết vào bể đựng nhiên
liệu. Hơn thế nữa, trong số 263 tấn nhiên liệu, chiếm hết 97% dung lượng của bể,
thì có tới 35 tấn là mới, chưa qua sử dụng. Trong khi đó, nhà lò số 4 đã
bị động đất và vụ nổ lúc 6 giờ ngày 15/03/2012 làm hư hỏng nặng nề.
Cựu Cố vấn của
Liên Hiệp Quốc Akio
Matsumura kể rằng: Trong buổi tường trình ngày
22/03/2012 tại Ủy ban Ngân sách của Thượng nghị viện Nhật Bản (House of
Councilors), Giám đốc Hiệp hội Hệ thống Toàn cầu và Đạo đức học Nhật Bản
Mitsuhei Murata nhấn mạnh rằng, nếu nhà lò số 4 bị sập thì bể đựng 1.535 bó
nhiên liệu sẽ đổ vỡ từ độ cao 30 mét. Kéo theo là sự cố ở cả 6 lò phản ứng và ở
cái bể đang chứa 6.375 bó nhiên liệu đã sử dụng, nằm cách lò số 4 khoảng 50
mét. Như vậy, sẽ có 11.421 bó nhiên liệu bị phơi ra ngoài không khí, và sẽ gây
hậu quả toàn cầu trong nhiều thế kỷ, ở mức độ mà thế giới chưa bao giờ chứng kiến.
Ông Matsumura đã hỏi Robert Alvarez, chuyên gia hàng đầu về bể đựng nhiên liệu
hạt nhân và là cựu Cố vấn của Tổng cục Năng lượng Mỹ (United States Department
of Energy), về tác động của 11.421 bó nhiên liệu, và nhận được trả lời:
“Dựa trên số liệu của Tổng cục Năng lượng
Mỹ, giả thiết rằng trong số đó có 11.138 bó nhiên liệu đã qua sử dụng, đang được
chứa tại khu vực Daiichi và hầu hết ở trong các bể làm lạnh, thì chúng chứa khoảng
336 triệu curies phóng xạ tồn tại lâu. Trong đó có chừng 134 triệu curies
Cesium-137, tức là gấp khoảng 85 lần lượng Cesium-137 bị phát tán trong tai nạn
Chernobyl, như Hội đồng Quốc gia Mỹ về Bảo vệ Bức xạ (NCRP) đã ước lượng. Lượng
Cesium-137 chứa trong toàn bộ kho nhiên liệu hạt nhân đã sử dụng tại khu vực
Daiichi bằng khoảng một nửa lượng Cesium-137 đã phát tán trong tất cả các vụ thử
vũ khí hạt nhân đã tiến hành trong khí quyển, trong tai nạn Chernobyl và có tại
các cơ sở tái chế nhiên liệu hạt nhân khắp thế giới (khoảng 270 triệu curies,
theo ước lượng của NCRP).”
85 lần lượng
Cesium-137 bị phát tán trong tại nạn Chernobyl nghĩa là gì? Là đủ để hủy hoại
môi trường toàn thế giới và nền văn minh nhân loại. Chính vì vậy, trong bức thư
gửi Tổng thư ký Liên Hiệp Quốc Ban Ki-moon ngày 25/03/2012, cựu Đại sứ Nhật Bản
tại Thụy Sĩ Mitsuhei Murata viết:
“Không
hề cường điệu khi nói rằng số phận của Nhật Bản và của cả thế giới phụ thuộc
vào lò phản ứng số 4.”
Arnie Gundersen, Kỹ sư trưởng
của Fairewinds
Energy Education Corp, với
40 năm kinh nghiệm trong lĩnh vực công nghệ điện hạt nhân và đã từng điều hành
nhiều đề án tại 70 nhà máy điện hạt nhân ở Mỹ, đánh giá là toàn bộ Bán cầu Bắc
sẽ bị đe dọa, nếu bể nhiên liệu của lò số 4 bị đổ vỡ. Ông Gundersen còn nói là:
“Trong bể nhiên liệu của
lò số 4 có nhiều Cesium hơn 800 quả bom nguyên tử nổ trên mặt đất... Nhưng tất
nhiên là chúng nổ cùng một lúc. Chắc chắn nó sẽ phá hủy
Nhật Bản với tư cách một quốc gia có tổ chức.”
Helen Caldicott (đã hơn 21 lần được phong Tiến sỹ danh dự) tuyên bố sẽ
sơ tán gia đình của bà khỏi Boston (USA) và chuyển xuống Bán cầu Nam, nếu bể
nhiên liệu số 4 bị sập. (Lưu ý rằng khoảng cách giữa Boston và Fukushima là
16.000 km, trong khi khoảng cách giữa Hà Nội và Fukushima là 3.800 km.)
Vậy
xác suất để bể đựng nhiên liệu trong nhà lò số 4 bị sập đổ là bao nhiêu? Arnie
Gundersen và nhiều chuyên gia khác cho rằng điều đó sẽ xảy ra nếu có động đất
7,0 độ Richter. Một số
nhà khoa học ước lượng xác suất xảy ra động đất cấp 7,0 tại Fukushima trong
vòng 1 năm tới là 70% và trong vòng 3 năm tới là 98%. Cựu Đại sứ Mitsuhei Murata nói
rằng: Theo ước lượng mới hiệu chỉnh của Chính phủ Nhật Bản thì xác suất xảy ra
động đất cấp 7,0 tại Fukushima trong 3 năm tới là 90%. Trong khi đó, theo Akio Matsumura,
nhiều nhà khoa học tin rằng không thể di chuyển hết 1.535 bó nhiên liệu ra khỏi
cái bể ấy trong vòng 2 hay 3 năm, và TEPCO cũng như Nhật Bản không có công nghệ
phù hợp cùng kinh nghiệm cần thiết để có thể tự xử lý tai họa đang tiếp diễn. Căn cứ vào những nhận định
này thì số phận của dân tộc Nhật Bản và của cả nhân loại chỉ còn phụ thuộc vào
may rủi, mà khả năng gặp may là thấp.
Hy
vọng rằng những dự đoán kể trên không hoàn toàn đúng. Nhưng dù viễn cảnh khủng
khiếp ấy chỉ đúng một phần, thì cũng quá đủ để khiến ta phải sửng sốt, vì sao
bao người có trách nhiệm lại có thể thản nhiên như không có chuyện gì xảy ra,
tiếp tục đuổi theo tham vọng, bất chấp hậu quả.
Trong buổi họp báo
ngày 04/06/2012, đương kim Thủ tướng Nhật Bản Yoshihiko Noda tuyên bố:
“Chúng tôi thấy rằng việc tái khởi động
một số nhà máy điện hạt nhân là cần thiết và quan trọng đối với sự phát triển của
kinh tế và xã hội Nhật Bản.”
Tất
nhiên, một khi đã rơi vào tình trạng điện hạt nhân chiếm tới 30% công suất điện
năng của quốc gia, thì rất khó để có được phương án thay thế ngay trong chốc
lát. Cũng giống như cai nghiện ma túy, cần có lộ trình hợp lý và tiến hành từng
bước, chứ khó mà cắt cơn ngay lập tức. Để làm yên lòng dư luận, ông Noda khẳng
định: “Tôi sẽ là người chịu trách nhiệm cuối cùng.” Thủ tướng quyết định
tái khởi động, bất chấp ý nguyện của đa số người dân, thì dĩ nhiên chính ông phải
chịu trách nhiệm, chứ còn ai chịu thay nữa? Nhưng vấn đề là chịu thế nào? Giả sử
một thảm họa tương tự tái diễn, như ở Fukushima, thì nhiều nhất ông cũng chỉ
cúi đầu xin lỗi và từ chức. Dù có tự nguyện quyên sinh, thì ông cũng không thể
đền nổi sinh mạng và sức khỏe của biết bao nạn nhân vô tội. Dù có đem hết tài sản
cá nhân ra đền, thì ông cũng không khắc phục nổi một phần nhỏ của hậu quả khủng
khiếp mà xã hội và môi trường phải gánh chịu. Cho nên, câu “chịu trách nhiệm
cuối cùng” nghe qua thì có vẻ to tát, nhưng thực ra nó cũng chỉ là một mệnh
đề trống rỗng, không giúp được gì. Khi sự thể nằm ngoài tầm nhận thức và khả
năng khống chế, mà vẫn thề thốt “chịu trách nhiệm”, thì cũng là lúc người
ta vô trách nhiệm nhất.
Thủ tướng Yoshihiko
Noda hứa hẹn:
“Tôi muốn làm tròn trách nhiệm của
mình bằng cách áp dụng mọi biện pháp có thể để đảm bảo sự an toàn của chúng.”
Đảm bảo kiểu gì,
khi các nhà máy điện hạt nhân chỉ được kiểm tra an toàn một cách chiếu lệ, dựa
trên những tiêu chuẩn mà thảm họa Fukushima đã chỉ ra là khiếm khuyết và không
đáp ứng được đòi hỏi của thực tế? Đảm bảo kiểu gì, khi chỉ có thể dựa vào những
thông tin thiếu hụt và méo mó của bộ máy quản lý các cấp, đã từng lừa dối bao
thế hệ thủ tướng tiền nhiệm? Qua phân tích, ta đã thấy rõ ràng là: Cho dù ông “áp
dụng mọi biện pháp có thể”, thì cũng không đủ “để đảm bảo sự an toàn của
chúng”! Thực ra, để phủ định lời hứa kể trên, chỉ cần nhắc lại một kết luận
trong diễn văn của chính bản thân Thủ tướng Noda, đọc tại Hội nghị Thượng đỉnh
về An toàn Hạt nhân ở Seoul vào ngày 27/03/2012 (tức là chỉ 69 ngày trước đó):
“Trong
mọi hoàn cảnh, không bao giờ có bất cứ một sự an toàn tuyệt đối nào cả, và sự nỗ
lực để đạt được an toàn (hạt nhân) không có hồi kết thúc. Mỗi người phấn đấu cho an toàn hạt nhân cần khắc
sâu trong tim điều này.”
Khi
hứa “đảm bảo sự an toàn” của nhà máy điện hạt nhân, thì có nghĩa là hứa
tạo ra hoàn cảnh mà trong đó có được “sự an toàn tuyệt đối”, nếu chưa “an
toàn tuyệt đối” thì vẫn chưa đủ “an toàn”. Hiển nhiên, ông Noda
không thể “đảm bảo” được cái mà chính ông cho rằng “không bao giờ có”.
Do đó, chắc hẳn ông đã “hứa zậy mà không nghĩ zậy”, tức là ông ý thức được rằng
mình không thể đảm bảo được an toàn điện hạt nhân. Nhưng để thỏa mãn nhu cầu
trước mắt về điện năng của xã hội, một nhiệm vụ khó thoái thác của Chính phủ Nhật
Bản, nên ông phải tìm cách thuyết phục nhân dân và chính quyền các địa phương
liên quan, đồng ý tái khởi động một số nhà máy điện hạt nhân. Nếu bản thân Thủ
tướng không tỏ ra tự tin thì chẳng thuyết phục được ai, nên ông mới tuyên bố
hùng hồn như thế. Vậy là, để hoàn thành trách nhiệm chính khách, ông Noda lại hứa
hẹn “kiểu thương nhân”.
Phát biểu tại buổi
lễ tưởng niệm ở Hiroshima ngày 06/08/2011, trên cương vị Thủ tướng Nhật Bản thời
đó, Naoto Kan bày tỏ ý muốn truyền bá cho nhân dân toàn thế giới kinh nghiệm
xương máu, rút ra từ thảm họa hạt nhân Fukushima:
“Tôi tin rằng trách nhiệm của chúng
ta là phải nhìn nhận thảm họa này như những bài học mới cho toàn nhân loại và
phải truyền thụ nhận thức của mình cho nhân dân thế giới và các thế hệ mai
sau.”
Nhận thức này cũng
phù hợp với quan điểm của đương kim Thủ tướng Yoshihiko Noda, được trình bày
trong diễn văn tại Hội nghị Thượng đỉnh về An toàn Hạt nhân kể trên:
“Thách thức lớn nhất đối với chúng ta
trong việc ứng xử với tai nạn và thảm họa (điện hạt nhân) là đánh thức ký ức của
mình. Thật ra, nhiệm vụ quan trọng và khó khăn nhất là truyền thụ kiến thức và
những bài học của chúng ta cho các thế hệ mai sau, và tôi muốn nhấn mạnh rằng
đó là nhiệm vụ mà mỗi nhà lãnh đạo phải có ý thức thực hiện nhằm tránh thảm họa.”
Nhận
thức đúng về nguy cơ của thảm họa điện hạt nhân và không ngừng “đánh thức ký
ức” là việc rất khó khăn, không chỉ đối với hàng tỉ người kém hiểu biết và
thiếu kinh nghiệm, mà còn khó đối với... cả bản thân hai ông.
Sau
khi xảy ra thảm họa Fukushima, ông Kan còn tiếp tục cầm quyền gần 6 tháng nữa.
Trong thời gian ấy, không thấy ông đặt vấn đề dừng xuất khẩu công nghệ điện hạt
nhân sang Việt Nam. Giờ đây, đương kim Thủ tướng Yoshihiko Noda vẫn tiếp tục
theo đuổi dự án xây dựng nhà máy điện hạt nhân ở Ninh Thuận, mặc dù chính sách của Chính phủ ông
là không xây dựng thêm nhà máy điện hạt nhân mới tại Nhật Bản và đưa Nhật Bản
rút hoàn toàn khỏi điện hạt nhân vào thập kỷ 2030. Phải chăng đó là điều đáng
buồn, cho nhân dân ta và cho cả các bạn Nhật. Đã biết là điện hạt nhân rất nguy
hiểm và có thể gây thảm họa, chính nước Nhật xác định là phải rút dần ra khỏi
điện hạt nhân, và muốn khuyên nhủ cả thế giới về điều đó. Nhưng đồng thời lại sẵn
sàng kiếm tiền bằng cách xuất khẩu công nghệ khủng khiếp ấy sang các nước khác.
Đại khái cũng giống như kiểu rao bán ma túy trên giảng đường: “Quý vị phải
hiểu rằng ma túy vô cùng độc hại, là thứ giết người hàng loạt, nên bản thân tôi
phải giã từ nó; nhưng nếu quý vị muốn mua thì tôi đảm bảo sẽ bán cho quý vị loại
ma túy an toàn nhất thế giới...”
Phải
chăng những người lãnh đạo Chính phủ Nhật Bản đang đánh đu giữa hai kiểu tư
duy? Về đối nội, khi quyết định rút dần ra khỏi điện hạt nhân để bảo vệ dân tộc
Nhật Bản, thì họ thể hiện tư duy “tầm chính khách”. Về đối ngoại, khi ủng
hộ việc xuất khẩu công nghệ điện hạt nhân ra nước ngoài để thu lợi cho các nhà
kinh doanh Nhật Bản, bất chấp tác hại cho phía đối tác và cộng đồng thế giới,
thì họ lại thể hiện tư duy “tầm thương nhân”. Đừng quên rằng, khác với
ma túy, thảm họa hạt nhân không phải là một thứ “tài sản quốc gia”, chỉ để xài
riêng, mà dù muốn hay không thì các nước xa gần cũng phải cùng gánh chịu hậu quả.
Hơn nữa, khi xây dựng nhà máy điện hạt nhân ở những nước lạc hậu và ngập chìm
trong tham nhũng, nhân lực chuyên môn vừa quá thiếu về số lượng, vừa quá yếu về
chất lượng, lại quen làm liều, làm ẩu, thì nguy cơ thảm họa hạt nhân còn lớn
hơn gấp bội lần so với ở Fukushima. Qua thử thách, người Nhật đã nhận ra rằng
điện hạt nhân cũng vượt quá cả khả năng làm chủ của chính mình, nên họ cũng sẽ
phải chịu một phần trách nhiệm khi giao thứ “đồ chơi” nguy hiểm ấy vào tay những
người đang cố vươn lên tầm “võ vẽ”, cũng giống như sự liên đới khi bán vũ khí
giết người cho trẻ con. Người Nhật nên ý thức rõ điều đó, không phải chỉ vì
khía cạnh đạo lý đối với đồng loại, mà cũng vì sự an toàn của chính bản thân họ.
*
*
*
Về
phía ta, không nên đổ trách nhiệm cho phía đối tác. Nhà máy điện hạt nhân có được xây dựng ở Việt Nam hay
không, điều đó về thực chất chỉ do một số ít người lãnh đạo Việt Nam quyết định.
Vận mệnh tương lai của dân tộc Việt Nam phụ thuộc vào việc họ vận dụng tư duy “tầm
chính khách”, hay tư duy “tầm thương nhân”.
Vấp
váp của Nhật Bản, dẫn đến thảm họa Fukushima, đã cho loài người những bài học
vô giá, mà quan trọng nhất là: Bất luận điện
hạt nhân có thể mang lại lợi ích gì, chỉ riêng việc nó có thể dẫn tới thảm họa,
đe dọa sự tồn vong của dân tộc, thậm chí của cả loài người, thì cũng đã quá đủ
để chúng ta khước từ nó.
Nếu lao vào canh bạc điện hạt nhân thì sẽ chuốc lấy tai họa kép.
Trước mắt là tai họa kinh tế, góp phần dìm dân tộc ta ngập sâu trong nợ nần, đẩy
các thế hệ con cháu lâm vào cảnh không biết bao giờ mới trả xong món nợ do giai
đoạn này để lại. Kinh khủng hơn là nguy cơ về thảm họa hạt nhân, có thể đe dọa
cả sự tồn vong của dân tộc.
Không thể đem sinh mạng của muôn dân và sự tồn tại của dân tộc để
đặt cược vào canh bạc điện hạt nhân!
19/10/2012
Ghi chú: Tất
cả các tài liệu được trích dẫn trong bài này đều được kết dẫn đến các địa chỉ
lưu trữ tài liệu đó trên internet. Vì vậy, tốt nhất là đọc phiên bản điện tử
nguyên vẹn của bài này để có thể nhanh chóng kết nối với các tài liệu gốc, nhằm
tham khảo thêm nhiều thông tin liên quan. Nếu khi nhấn chuột mà không thấy xuất
hiện tài liệu tương ứng thì có thể đường kết nối đang bị trục trặc, hoặc chủ
nhân trang web đã xóa tài liệu liên quan sau ngày 19/10/2012.
Mấy bài viết của cùng tác giả về chủ đề điện hạt nhân:
Hoàng
Xuân Phú: Mạn
bàn về an toàn điện hạt nhân, 14/06/2011
Hoàng
Xuân Phú: Về
huyền thoại điện hạt nhân giá rẻ, 11/07/2011
Hoàng
Xuân Phú: Phiêu
lưu điện hạt nhân, 17/07/2011